Suy niệm

Thầy Giêsu chết trên Thập Giá, các môn đệ trốn biệt tăm

Chương cuối cương 16 Thánh Máccô mô tả như sau:

(Mc16,1-19)

Thầy Giê-su chết vào chiều thứ 6 sang ngày thứ bảy là ngày sa-bat là ngày nghỉ theo luật định, không ai được làm việc trong ngày sa-bat, nhưng vừa hết ngày sa-bat, mấy bà nôn nóng,  mua dầu thơm để đi ra mộ ướp xác Đức Giê-su. bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mới Sáng tinh sương ngày thứ nhất (ngày Chủ nhật) trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà vội vàng ra mộ. Nhưng các bà lo lắng, phụ nữ chân yếu tay mềm làm sao lăn được tảng đá cửa mồ to đùng kia, liệu có ai giúp lăn tảng đá ra dùm không? Nhưng đến nơi ngước mắt lên các bà ngạc nhiên khi thấy ai đó đã lăn tảng đá sang một bên  rồi, niềm vui khiến các bà tiến nhanh vào mộ, nhưng bất chợt các bà thấy một người thanh niên bên trong bận bộ đồ trắng đang ngồi phía bên phải, tươi nét mặt nhìn các bà, nhưng các bà cũng không dấu được sự lo sợ vì quá đội ngạc nhiên, vị thanh niên là sứ giả ấy nhanh nhẹn cất tiếng: Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng vừa bị đóng đinh hôm thứ sáu chứ gì ! Đức Giê-su đã trỗi dậy, đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa đâu; các bà nhìn xem kìa, chỗ đã đặt Ngài đây này, các bà nhìn qua nơi chỗ Thầy nằm quả thật Thầy không còn nằm đấy nữa, vị sứ giả ấy dặn dò tiếp theo: Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Thầy Giê-su sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Thầy như Thầy từng đã nói với các ông trước đây. Nhưng sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”.(Mc,14,28)Các bà bình tĩnh, lắng nghe những lời dặn dò nhưng đôi mắt vẫn còn nghi ngờ một sự việc khó có thể tin được, nghe xong các bà bước ra khỏi mộ, bình tĩnh như một sự bình thường, nhưng vừa ra khỏi mộ, mấy bà tức tốc ba chân bốn cẳng bỏ chạy cùng nhau, chạy như ai đuổi, không dám ngoái lại phía sau, họ tụm lại một nơi an toàn, chẳng ai bảo ai câu gì vì họ chưa hoàn hồn, ai nấy còn run lẩy bẩy, các bà chẳng nói gì với ai, vì quá đội ngạc nhiên và sợ hãi.

Sau khi sống lại Thầy đã thuộc về thế giới Thần linh, Thầy vẫn hiện diện nhưng thế giới thần linh không còn lệ thuộc rào cản của vật chất, Thầy không cần ăn uống hay đi bộ như một thân xác của Thầy trước đây.  Lúc tảng sáng ngày Chủ nhật, còn gọi là ngày thứ nhất  trong tuần, Thầy đã hiện ra lần đầu tiên với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ trước đây đã được Thầy trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà nhanh chóng đi báo tin cho các môn đệ đang tản mát nhiều nơi họ đang u sầu tuyệt vọng. Nghe bà nói Thầy đang sống và bà đã thấy Đức Giê-su, các ông vẫn không tin.

Sau đó, Đức Thầy tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ cũng lập tức quay lại báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.

Sau cùng, Đức Giê-su Thầy tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người sống lại.  Đức Thầy nói với các ông : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.  Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.  Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”  Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

12 vị tông đồ nhút nhát, hứa cuội, theo Thầy 3 năm, khi Thầy gặp điều không may liền bỏ trốn hết, tuyệt vọng, trở về quê lưới cá…3 lần Thầy báo trước Thầy sẽ bị các thượng tế và luật sĩ bắt bớ, đánh đòn và giết chết nhưng sau 3 ngày Thầy sẽ sống lại và hẹn gặp các môn đệ tại Ga-li-lê. Tất cả những điều ấy các ông cảm thấy mơ hồ viễn tượng xa xôi, không thể hiểu nỗi và cũng không nghĩ điều ấy có thể xẩy ra; ấy mà hôm nay mọi sự đều xẩy ra như Thầy đã nói. Đến hôm nay Thầy đã về cùng Cha Thầy trên trời, mặc dầu không còn Thầy, không có điểm tựa nhưng các ông lại quy tụ lại cùng nhau, được ơn sức mạnh của Thần khí, các ông hăng hái và mạnh mẽ hơn bao giờ hết, các ông nhớ lại và hiểu cả một quá trình dài sống với Thầy, giờ đã tỏ tường, không có gì là khó hiểu, đầu óc các ông mở ra, lòng trí các ông đầy niềm tin sắt đá vào Thầy, đặc biệt trong thời gian 40 ngày được sống với Thầy sau khi Thầy sống lại, các ông tin thật Thầy là Chúa và là con của Cha trên trời. Nhớ lại lời Thầy dặn dò trước lúc chia tay để về trời rằng : “Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân, nhân danh Thầy làm phép rửa cho họ…”(Mc16,15-16) các ông bàn bạc cùng nhau, đặt Phê-rô làm thủ lãnh đầu tiên rồi chia nhau đi giảng dạy như lời Thầy dặn dò, đi đến đâu các ông cũng mạnh dạn cao rao về Thầy Giê-su là Chúa, đã sinh ra tại đất nước Do Thái, đã đến thực hiện lời Thiên Chúa hứa với tổ phụ Do Thái, Ngài đã giảng dạy về lề luật yêu thương, Ngài đã bị giết chết trên đồi Gôn-go-tha nhưng sau 3 ngày Ngài đã sống lại và ở với các ông 40 mươi ngày rồi về trời. Các ông đi khắp nơi trong Do Thái (Irael) và xa khỏi nước Do Thái đến khắp vùng tiểu á, syri, Hylạp, Thổ Nhị kỳ, đảo ship, đến tận Rôma, tràn qua Châu âu…đi đến đâu các ông cũng cao rao những gì mình thấy, những gì mình tin và làm nhân chứng sống động về Chúa Giê-su đã sống lại. Niềm tin vào Thầy Giê-su quá mãnh liệt đến nỗi các ông không còn nhút nhát, không còn tuyệt vọng về quê, trái lại hiên ngang và công khai đi rao giảng và làm phép rửa tội cho biết bao người xin theo đạo Giê-su ( ngày nay gọi là đạo Công Giáo). Các ông bị nhiều thế lực chống đối, bị cấm rao giảng, bị bắt bớ, bị tù đày bị đòn roi vọt nhưng các ông không hề biết sợ hãi, trái lại ai ai cũng sẵn sàng liều chết vì danh Thầy, khác hẳn với thái độ nhút nhát, tuyệt vọng trước đây khi Thầy Giêsu bị bắt tại vườn Giết-si-ma-ni, chỉ bởi lòng tin thật Đức Giêsu là người nhưng cũng là Chúa thật, do vậy không ai có thể bịt miệng được các ông. Và nhờ đó chỉ 12 ông mà đạo công giáo phát triển toàn cầu, đến nay là đạo có số lượng đông nhất trong các tôn giáo trên địa cầu. Phần lớn các ông đều chết tự vì đạo, trừ ông Gioan chết vì tuổi già.

Follow Me:

Trả lời