Bài Vở Cũ Giới trẻ

VinhDanhPhuNuTruyetThuyetVN VinhPhan



Con Buom – Hai Trieu Suu Tam

Vinh danh phụ nữ trong truyền thuyết Việt Nam

Phụ nữ VN từ ngàn xưa đã vang danh “Trung trinh tiết hạnh” đúng như câu

“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”

Những tấm gương oai hùng như bà Trưng, bà Triệu, hiền phụ như bà Tú Xương, bà Sương Nguyệt Ánh, không ai có thể phủ nhận sức chịu đựng bền bỉ và đức tính cần cù chịu khó của các bà mẹ VN, cũng không ai có thể phủ nhận tính trong sạch, ngay thẳng và đàng hoàng của người phụ nữ, những đức tính hy sinh, can đảm và chan chứa tình người, đã nâng cao phẩm giá phụ nữ VN lên hàng “Tiên Thánh”, và biến một số người đàn bà nước Nam thành những vị phụ nữ “truyền thuyết” trong lịch sử dân tộc, chúng ta nên ôn lại những đức tính cao cả qua các thời đại lịch sử.

Truyền thuyết là gì? theo Giáo sư Trần Gia Phụng, “truyền thuyết là những câu chuyện bắt đầu từ sự thật lịch sử, được thêm thắt hoặc được tiểu thuyết hóa, và được truyền tụng từ người này qua người khác, rồi lại được dân chúng chấp nhận như là những chuyện lịch sử có thật”.
Theo “Hội liên hiệp phụ nữ VN”, chọn 28 người tiêu biểu truyền thuyết VN như:

1. Quốc mẫu Âu Cơ 15. Công chúa Ngọc Hân
2. Trưng Vương 16. Nữ sĩ Đoàn thị Điểm
3. Công chúa Hoàng Thiều Hoa 17. Nữ tướng Bùi thị Xuân
4. Lê Chân 18. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương
5. Bà Triệu 19. Bà Huyện Thanh Quan
6. Thái hậu Dương Vân Nga 20. Thái hậu Từ Dũ
7. Thái hậu Ỷ Lan 21. Bà Tú Xương
8. Công chúa An Tư 22. Sương Nguyệt Ánh
9. Công chúa Huyền Trân 23. Bà ba Đề Thám
10. Nguyễn thị Bích Châu 24. Bà Phan Bội châu
11. Lương Minh Nguyệt 25. Lê Thị Đàn
12. Thiếu phụ Nam Xương 26. Nguyễn thị Bắc
13. Thánh mẫu Liễu Hạnh 27. Nguyễn thị Giang
14. Công chúa Vạn Ngọc 28. Nàng Tô Thị

Bây giờ chúng ta sơ lược tiểu sử “Phụ nữ truyền thuyết VN” theo thứ tự như sau:

1 Quốc mẫu Âu Cơ (2800 Tr.TL)

Theo truyền thuyết, khoảng gần 5000 trước, bà Âu Cơ dòng dõi tiên, kết duyên cùng vua Lạc Long dòng dõi rồng, sanh được 100 con trai là con rồng cháu tiên, về sau, 50 con theo cha Lạc Long xuống biển, 50 con theo mẹ Âu Cơ lên núi, đi về phương Nam lập ra nước Văn Lang, do người con trưởng làm Vua hiệu ‘Hùng Vương”, truyền được 18 đời. Người Việt Nam tôn vinh bà Âu Cơ là Mẫu quốc, trong ngày giỗ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.

2 Trưng Vương (40-43)

Năm 40 thời Bắc thuộc, Thái thú Tô Định bắt giết ông Thị Sách chồng bà Trưng Trắc, và đàn áp dân Lạc Việt, vì Nước thù Nhà, bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định, đoạt 65 thành và 4 quận, lên làm Vua xưng là “Trưng Vương”, đóng đô ở Mê Linh, chỉ có 3 năm nhưng đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của người phụ nữ VN và mở đầu cho nền độc lập nước nhà, hiện nay có nhiều đền thờ hai Bà Trưng và ngày lễ hội kỷ niệm hàng năm vào ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch.

3 – Công chúa Hoàng Thiều Hoa (Tướng thời Trưng Vương)

Bà Hoàng Thiều Hoa người huyện Gia Hưng, tỉnh Thanh Hóa (có sách chép là tỉnh Sơn Tây ngày nay), không rõ năm sinh, năm mất, bà là một nữ tướng tài giỏi của hai bà Trưng, giữ nhiệm vụ huấn luyện đoàn nương tử quân, khi hai Bà Trưng đánh đuổi xong giặc Hán đô hộ, lên ngôi Vua, đã phong tước cho bà “Thiều Hoa Công Chúa”, hiện nay đền thờ Công Chúa ở làng Hiếu Quan, huyện Tam Nông, hàng năm lễ hội kỷ niệm vào các ngày 12, 13 tháng giêng âm lịch.

4 – Lê Chân (Danh tướng thời Trưng Vương)

Lê Chân là nữ tướng tài ba của hai bà Trưng, người làng An Biên, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương, không rõ năm sinh, năm mất, trong các trận đánh đuổi giặc Hán đô hộ, bà Lê Chân thường giữ chức tiên phong và nổi tiếng dũng cảm. Khi hai bà Trưng lên ngôi, đã giao việc quốc phòng cho bà Lê Chân và phong làm Thánh Chân công chúa, bà là người sáng chế ra môn thể thao : đánh phết” rất vui, các Vua đời sau đều có sắc phong bà làm Thượng Đẳng Phúc Thần Công Chúa, hiện nay đền thờ bà Lê Chân tại làng Mai Động (Hà Nội), lễ hội kỷ niệm vào các ngày 4,5 và 6 tháng giêng âm lịch, thường có tổ chức thi đấu vật và “đánh phết”.

5 – Bà Triệu (225-248)

Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa năm 248, chống lại quân Đông Ngô cai trị tàn ác, bà rất dũng cảm thường nói: “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tỳ làm thiếp người ta”. Ra trận, bà Triệu cỡi voi mặc áo giáp vàng trông rất oai phong, khiến quân Ngô phải khiếp sợ, bà đã hy sinh năm 23 tuổi, hiện nay có đền thờ bà Triệu trên núi Ải, làng Phú Điền(Thanh Hóa), lễ hội vật kỷ niệm vào ngày 21 tháng 2 âm lịch.

6 – Thái hậu Dương Vân Nga (942-1000)

Thái hậu là Chánh Cung Hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng, tên là Dương Vân Nga, khi vua Đinh Tiên Hoàng bị tên Đỗ Thích đầu độc chết, con là Đinh Tuệ còn nhỏ lên nối ngôi, bà trở thành Thái hậu nhiếp chính, nhà Tống nghe tin vua mất, đem quân sang xâm chiếm nước ta, trước tình thế nguy cấp, Phạm Cự Lượng cùng một số tướng lãnh đã tôn Thập Đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để chống ngoại xâm, thái hậu Dương Vân Nga đồng tình và sau đó trở thành Chánh cung hoàng hậu của vua Lê Đại Hành, nhờ tính cương nghị và thông hiểu tình thế, yên vị được triều chính, hoàng hậu đã giúp vua Lê đánh tan quân Tống. Hiện nay tượng và đền thờ hoàng hậu tại đền vua Lê Đại Hành, ở làng Trường Yên(Ninh Bình), và lễ hội kỷ niệm cùng ngày với vua Đinh và Lê 10 tháng 3 âm lịch.

7 – Ỷ Lan Nguyên Phi

Tên thật là Lê Thị Ỷ Lan, xuất thân từ gia đình nông dân, người làng Thổ Lỗi(Bắc Ninh), tương truyền bà đứng tựa gốc lan, trong khi mọi người nô nức ra xem đoàn xa giá vua Lý Thánh Tôn đi qua. Nhà Vua cảm sắc đẹp và thái độ dửng dưng lạ lùng của bà, bèn tuyển về cung làm Ỷ Lan (dựa gốc cây) phu nhân. Bà sinh ra Vua Lý Nhân Tông và trở thành Hoàng Thái Hậu, Bà đã giúp Vua Lý Thánh Tông tạm thời nhiếp chính, trị nước kết quả tốt đẹp, khi Vua đi đánh nước Chiêm Thành, bà có lòng cứu giúp những người con gái nhà nghèo phải đi ở đợ, nên dân chúng thời bấy giờ xưng tụng bà là « Quan Âm » Thái Hậu Ỷ Lan mất ngày 25 tháng 7 năm Đinh Hợi(1117).

8 – Công chúa An Tư (Thời vua Trần Nhân Tông)

Là con gái út vua Trần Thánh Tông, em gái vua Trần Nhân Tông(1279-1293), tháng 2 năm Ất Dậu(1285), Thoát Hoan xâm lăng đánh thắng nhiều nơi, đồng thời có một số vương hầu nhà Trần hàng giặc, để ngăn chặn bớt tính hung hăng của giặc, vua Trần Nhân Tông đã sai Trần Dương và Đào Kiện đưa Quốc Muội là Công Chúa An Tư gả cho Thoát Hoan, ngoài chiến trường, dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Đại Vương, quân dân nước Nam cương quyết đánh giặc, trong khi đó dưới trướng Thoát Hoan, công chúa An Tư phải âm thầm nuốt nhục, hy sinh đời xuân sắc để trì hoãn sức giặc, sự hy sinh đã đóng góp phần nào cho cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông dưới triều Trần, thế kỷ thứ 3.

9 – Công chúa Huyền Trân (thế kỷ 13, 14)

Trần thị Huyền Trân, là con gái vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh Tôn (trị vì 1923-1314), năm Bính Ngọ (1306), vua Trần Anh Tôn nhận gả Huyền Trân cho vua Chiêm Chế-Mân, để đáp lễ, vua Chiêm dâng tặng Đại Việt 2 châu Ô & Lý. Huyền Trân về Chiêm Thành được phong làm Hoàng Hậu. Hơn một năm sau Chế Mân chết, theo tục lệ, Huyền Trân phải lên giàn hỏa, vua Anh Tôn sai tướng Trần Khắc Chung sang cứu, tương truyền Trần Khắc Chung là người tình cũ của công chúa Huyền Trân, do đó đã tạo nên một câu chuyện tình lâm ly bi thiết trong sử Việt, dù bị chê trách về nhiều mặt, do sự kỳ thị chủng tộc và nền giáo lý Khổng Mạnh khắc khe, Công Chúa Huyền Trân vẫn được dân chúng Việt Nam biết ơn về sự việc nàng mang về cho nước Đại Việt hai châu Ô & Lý, mở đầu cho cuộc Nam tiến sau này.

10 – Nguyễn Thị Bích Châu (Thời vua Trần Duệ Tông)

Bà là Phi hậu triều vua Trần Duệ Tông(trị vì 1372-1377), không rõ năm sinh và mất, trước đó khoảng 20 năm, cuối đời vua Trần Dụ Tông( trị vì 1341-1369), vì chính triều đổ nát, dân chúng lầm than, ông Chu Văn An đã dâng ‘Thất trảm sứ’ đòi chém 7 quyền thần gian nịnh, bà Phi hậu Bích Châu tuy là phận gái ở trong cung, cũng noi theo tấm gương bất khuất của thầy Chu, can đảm dâng lên vua Duệ Tông bài ‘ Kê Minh Thập Sách’ để cứu nguy xã tắc, trong 10 điều thập sách, có các điểm như sau ;
1, Trừ kẻ bạo
2, Tránh việc phiền nhiểu
3, Trừ mọt nước
4, Đuổi bọn những quan lại hại Dân lành.
Bà Nguyễn thị Bích Châu chỉ là một cung nhân mà dám nói ra những sự thối nát của chế độ giữa thời phong kiến toàn thịnh, kể thật can đảm và đáng khen.

11 – Lương Minh Nguyệt(Thời Lê Lợi kháng chiến)

Bà là vợ Đinh Liệt(1471) danh tướng của Bình Định Vương(Lê Lợi) người làng Chuế Cầu, tỉnh Nam Định, có nhan sắc và giỏi nghề ca hát Ả Đào, trong thời gian Lê Lợi Đánh quân Minh, bà đã mở quán rượu nổi tiếng ở gần thành Cổ Lộng (Đông Đô tức Thăng Long), cố ý dò ra tin giặc giúp kháng chiến, trong một cuộc tấn công thành Cổ Lộng, bà Minh Nguyệt đã cùng các cô gái tiếp viên phục vụ rượu một số tướng Minh say mèm, và làm ám hiệu để quân Lam Sơn dưới quyền chỉ huy của tướng Lê Thạch chiếm được thành, sau đó Đinh Liệt được phong tướng quốc quân, mang họ nhà Lê, và bà nhất phẩm Phu Nhân.

12 – Thiếu phụ Nam Xương(đời Lê Thánh Tông)

Bà quê huyện Nam Xương(Hà Nam), là vợ chàng Trương, mới có thai thì chồng gọi đi lính thú phương xa, đứa bé trai sinh ra không biết mặt cha, mỗi tối bà thường chỉ bóng mình trên vách, mà dạy con chào hỏi cha trước khi đi ngủ, ít lâu sau chàng Trương trở về, đứa bé thấy xa lạ và nói, bố nó chỉ về đêm tối, chàng Trương nghi ngờ vợ ngoại tình, nên đã mắng nhiếc đuổi đi, bị oan ức, bèn nhảy xuống sông Hoàng Giang địa phận Nam Xương tự vận, đến tối thắp đèn lên, đứa bé mới chỉ bóng chàng trên vách và nói rằng bố đã về, chàng lúc đó mới hiểu ra nhưng đã trể, dân chúng biết chuyện người đàn bà tiết hạnh chết oan, bèn lập miếu thờ, vua Lê Thánh Tông(1460-1497) đi qua miếu, làm một bài thơ vịnh rất nổi tiếng, được khắc vào bia đá năm 1471.

13 – Thánh mẫu Liễu Hạnh (thế kỷ 16)

Là nhân vật thần thoại, được người đời sùng bái, xưng tụng là Liễu Hạnh Công chúa hay Thánh mẫu đền Sòng (Sòng Sơn, Thanh-Hóa), theo truyền thuyết Liễu Hạnh Công chúa, chính là Công chúa Quỳnh Nương trên Thiên đình bị giáng xuống trần gian, làm con gái một vị quan triều đình hậu Lê, mang tên là Lê Thị Giáng Tiên quê làng Vân Cát huyện Phú-Giày (Nam Định), Giáng Tiên rất xinh đẹp, giỏi thơ văn, đàn sáo và soạn nhiều bài hát rất hay, kết duyên với Đào Lang năm 18 tuổi, được 3 năm, Giáng Tiên đã đột ngột từ trần, trở về thượng giới, nhưng vì chưa hết hạn đi đày, Giáng Tiên lại xuống trần gian lần nữa, đổi tên là Liễu Hạnh, cùng với Ngọc nữ Quế Nương và Thị Nương, ba người hiện xuống một làng ở Thanh Hóa, đi khắp các nơi cứu nhân độ thế và nhiều lần hiển linh cứu giúp dân lành, hoặc làm thơ xướng họa với các danh sĩ thời đó. Sau khi trở về Trời, bà Liễu Hạnh được dân chúng suy tôn là Mẫu nghi thiên hạ, được vua Lê sắc phong là Thượng Đẳng tối linh thần, dân chúng lập đền thờ tại những nơi bà đã đi qua như Phù Giấy ở Nam-Định, đền Song ở Thanh-Hóa và Tây Hồ ở Thăng Long, lễ hội từ mồng 1 đến mồng 10 tháng 3 âm lịch.

14 – Công chúa Ngọc Vạn (thế kỷ 17)

Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Vạn là con của Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Nguyễn đàng trong từ 1613-1635), năm 1620 Công chúa kết hôn với vua Chân Lạp(Cambodia) và trở thành Hoàng Hậu vương quốc, thủ đô lúc đó là Udong, những tùy tùng của Công chúa Ngọc Vạn đều được giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình Chân Lạp, năm 1623 Sãi vương sai sứ đến Udong xin cho người Việt định cư ở vùng Sài-Gòn ngày nay và được buôn bán, mở khu dinh điền, nhờ sự vận động của Công chúa Ngọc Vạn và đề nghị của Chúa Nguyễn đều được vua Chân Lạp chấp nhận, Công chúa Ngọc vạn đã có công mở đường cho người Việt trong cuộc Nam tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long sau này và mở rộng giang sơn như ngày nay.

15 – Công chúa Ngọc Hân (1770-1799)

Công chúa Lê Ngọc Hân là con vua Lê Hiển Tông, năm 16 tuổi, Công chúa kết duyên với vị anh hùng Nguyễn Huệ, người có công diệt Trịnh phù Lê và đánh đuổi quân xâm lăng Xiêm La và Mãn Thanh, bà vừa xinh đẹp lại có tài văn học, được hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ phong làm Bắc Cung Hoàng hậu. Khi vua Quang Trung đột ngột băng hà, bà rất buồn và đã sáng tác các bài ‘văn tế vua Quang trung’‘ai tư vãn’, đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam những bài thơ hay và cảm động.

16 – Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1746)

Bà người tỉnh Bắc Ninh, rất giỏi thơ văn, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, năm 16 tuổi bà được tiến cung làm Phi Tần, nhưng sau đó bà xin về, rồi làm chức giáo thụ ở cung cấm, bà đã trải qua nhiều năm loạn lạc, sau kết hôn với tiến sĩ Nguyễn Kiều, người huyện Từ Liêm, bà đã sáng tác ‘tục truyền kỳ’ hay ‘truyền kỳ tân phả’ bằng chữ Nho và dịch ‘Chinh Phụ Ngâm Khúc’ bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, ‘Khúc Ngâm Chinh phụ’ bằng chữ Nôm (Quốc Ngữ) theo thể thơ ‘song thất lục bát’, đã diễn tả được tâm tình người phụ nữ VN trung trinh tiết hạnh, vừa lo cho chồng chinh chiến phương xa, vừa phải thay chồng gánh vác công việc gia đình, dạy dỗ con thơ, vừa phải lo giữ gìn phẩm hạnh, nữ sĩ Đoàn thị Điểm mất ngày 11 tháng 9 năm Bính Ngọ 1746

17 – Nữ tướng Bùi thị Xuân (?-1802)

Là tướng giỏi của nhà Tây Sơn, vợ danh tướng Trần Quang Diệu, quê tỉnh Bình Định, trong các chiến trận của nhà Tây Sơn, vợ chồng bà đều lập được nhiều chiến công oanh liệt, năm 1820 vua Gia Long thắng trận, bà bị hành hình bằng voi giày xéo, theo giáo sĩ La Bissachère có mặt tại hiện trường, bà rất can đảm, đã lấy vải quấn chặt người cho khỏi lộ liễu và đứng thẳng người trước mặt voi, khiến voi phải sợ hãi lùi lại, bà đã đóng góp công lao với nhà Tây-Sơn trong các cuộc chinh chiến, nhất là tiêu diệt họ Trịnh ở miền Bắc, dẹp tan các cuộc xâm lăng của Xiêm-La, Mãn-Thanh, nên bà chiếm được nhiều cảm tình của dân chúng VN, lúc này ở đất Bình Định có câu :

Ai về Bình Định mà xem
Con gái Bình Định, dùng roi đi quyền

18 – Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1780-1820)

Nữ sĩ nổi tiếng đầu thế kỷ 19, tài văn thơ cả chữ Nôm lẫn chữ Hán, con ông Hồ phi Diễn, người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu(Nghệ An), thơ Nôm của bà thật chua chát, châm biếm và khinh mạt mọi giới, thơ Hán của bà tuy cũng mang vẻ buồn, nhưng lại rất chừng mực và chứa chan tình cảm, nữ sĩ là thi sĩ VN duy nhất có tên trong ‘tự điển văn luân larousse’ theo những câu chuyện Việt Sử.

19 – Bà Huyện Thanh Quan (Đầu thế kỷ 19)

Bà tên thật là Nguyễn thị Hinh, người làng Nghi Tàm(Hà Đông), lấy ông cử Lưu Nghi(1804-1847), là tri huyện Thanh Quan (nên thường gọi bà là Huyện Thanh Quan), chồng bà mất năm 43 tuôi, bà vẫn ở vậy nuôi con, triều vua Minh mạng, bà được mời làm Cung Trung giáo tập, dạy cung phi và Công chúa trong cung, thơ bà Huyện Thanh Quan nổi tiếng thanh cao, trang nhã, ý nhị và điêu luyện, nghe man mác nỗi buồn hoài cổ, nhớ nước nhớ nhà như các bài ‘Qua Đèo Ngang Tức Cảnh’, ‘Thăng Long Hoài Cổ’, ‘Chiều Hôm Nhớ Nhà’.

20 – Thái hậu Từ Dũ (1810-1902)

Tên thật là Phạm thị Hằng, người tỉnh Gia Định, là con gái quốc công Phạm Đăng Hưng, được tiến cung năm 14 tuổi và trở thành Qúi phi của vua Triệu Trị, bà sinh ra vua Tự Đức nên trở thành Thái Hậu, hiệu Từ Dũ Bát-Huệ-Thái hoàng Thái hậu, theo sử gia Trần Trọng Kim, Thái hậu Từ Dũ ‘thuộc sử sách đã nhiều, mà biết việc đời cũng rộng’, đến đời vua Thành Thái, bà được dâng tôn hiệu là Từ Dũ Bát-Huệ-Khương-Thọ-Thái thái hoàng Thái hậu, Thái hậu Từ Dũ là người quyền cao đức trọng thời nhà Nguyễn, đã nêu tấm gương tốt về đức hạnh cho hậu thế, bà mất ngày 5 tháng 4 Nhâm Dần, thọ 92 tuổi.

21 – Bà Tú Xương (cuối thế kỷ 19)

Bà họ Phạm, người tỉnh Hải Dương, là hiền thê nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương(1869-1907) tức Tú Xương, bà là người mẹ hiền tiêu biểu cho bà mẹ quê VN, chỉ biết một đời tận tụy cho chồng, cho con không phiền hà gì đến bản thân mình, đúng như lời thơ Tứ Xương đã diễn tả :

Quanh năm buôn bán ở bên sông
Nuôi nấng năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước, buổi đò Đông

22 – Bà Sương Nguyệt Ánh(1863-1921)

Tên thật là Nguyễn Thị Khuê, sinh ngày 24 tháng 12 năm Qúy Hợi(1863), tại Gia Định, con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, bà có nhan sắc xinh đẹp, lại có tài văn chương, đoan trang, tiết hạnh, nhưng lập gia đình trễ, trên 25 tuổi bà mới kết hôn, sinh được một gái thì chồng chết, bà ở vậy nuôi con, vui với thơ văn, lấy bút hiệu là Sương Nguyệt Ánh (nghĩa là người sương phụ, thủ tiết thờ chồng), bà viết ‘Gương tỏ đời nay trong Tiết phụ, và Lâu đài tiếng tốt tạc non sông’, bà rất hay chữ, giỏi thơ nổi tiếng ở miền Nam và làm chủ bút tuần báo ‘Nữ giới chung’ ở Sài Gòn, là tuần báo đầu tiên của nước VN, bà mất ngày 12 tháng 11 âm lịch(4 thánh 1 năm 1921), hưởng dương 58 tuổi.

23 – Bà ba Đề Thám(cuối thế kỷ 19)

Bà tên thật là Đặng Thị Nhu(còn có tên là Đặng Thị Nho tức bà ba Cẩn, vợ thứ ba của nhà cánh mạng Hoàng Hoa Thám (Đề Thám), là một nữ tướng rất can trường, cùng sát cánh với chồng trong cuộc chiến chống Pháp tại Yên Thế, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ngày 1 tháng 2 năm 1909, bà và con gái Hoàng Thị Thế bị Pháp bắt và đày đi Guyanne thuộc Pháp ở Nam Mỹ, trên đường đi lưu đày, bà ba Đề Thám đẵ nhảy xuống biển tự vận, noi gương bất khuất của bà Trưng, bà Triệu.

24 – Bà Phan Bội Châu (1866-1936)

Tên thật là Thái Thị Huyên, vợ nhà cánh mạng yêu nước Phan Bội Châu(1867-1940), người làng Diên Lân tỉnh nghệ An,, là dâu nhà Nho năm 23 tuổi hết lòng giữ trọn đạo dâu hiền, chồng thi đỗ Giải Nguyên, bà vẫn giữ nếp nhà, sống đời giản dị, lo cho chồng cho con, chồng bà xuất gia đi tìm đường cứu nước hơn 20 năm, bà vẫn giữ lòng chung thủy, khi ông Phan Bội châu bị bắt về nước năm 1925, bà chỉ gặp mặt chồng nửa tiếng đồng hồ tại Nghệ An, rồi lại xa cách cho đến lúc mãn phần, trong mấy lời chia tay bà đã nói ‘vợ chồng ly biệt nhau hơn 20 năm, nay được một lần giáp mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi, từ đây trở về sau mong thầy, chỉ mong thầy giữ được lòng xưa’, bà Phan Bội Châu là tấm gương sáng cho phụ nữ VN noi theo, bà mất ngày 1 tháng 4 ăm lịch(21-5-1936) thọ 70 tuổi.

25 – Ba Lê Thị Đàn (cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20)

Người tỉnh Thừa Thiên, hoạt động tích cực trong Duy Tân hội tại Huế, được Phan Bội Châu đặt biệt danh ‘Ấu Triệu’ tức ‘Triệu Nhỏ’(ý so sánh với bà Triệu lớn tức bà Triệu Thị Trinh), bà phụ trách liên lạc, chuyển vận thư từ, tiền bạc cho những nhà hoạt động cách mạng khắp các nơi ở trung phần, năm 1910 bị Pháp bắt, bà tự tử trong tù trại Quảng Trị.

26 – Nguyễn Thị Bắc (Liệt sĩ cận đại)

Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang, là hai chị em ruột, quê ở Bắc Giang, tục là cô Bắc, cô Giang, đều là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, chi bộ Bắc Giang, cô Bắc cùng với cô Giang, làm liên lạc và tuyên truyền, hoạt động tích cực. Năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái, do đảng trưởng Nguyễn Thái Học lãnh đạo bị thất bại, cô Bắc bị Pháp bắt, và đưa ra xét xử trước hội đồng để hành quyết, cô đã hiên ngang chỉ trích chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương và nói ‘Các ông hãy về Pháp mà kéo đỗ tượng Jeanne d’Arc đi’, (Jeanne d ‘Arc là một nữ anh hùng Pháp), khiến người Pháp phải kiêng nể tinh thần bất khuất của người phụ nữ VN.

27 – Nguyễn Thị Giang( ?-1930).

Cô Giang là hôn thê của lãnh tụ Nguyễn Thái Học, đảng trưởng VN Quốc Dân Đảng, hoạt động trong vùng Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Pháp đưa lên máy chém ở Yên Bái, cô Giang đã đến tận pháp trường để chứng kiến cái chết anh dũng của người yêu, sau đó cô về nhà trọ, viết thư tuyệt mệnh gửi song thân, và gửi hương hồn Nguyễn Thái Học, trong đó có câu ‘Anh đã là người yêu nước, không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước, anh giữ lấy linh hồn cao cả, để về dưới suối vàng, chiêu binh rèn súng đánh đuổi quân thù’, cô Giang còn làm một bài thơ lục bát, tỏ rõ ý chí hy sinh vì nước, sau đó đã dùng súng lục tự tử để bảo toàn danh tiết và bảo toàn bí mật cho đảng.

28 – Nàng Tô Thị.

Là tên một hiền phụ trong truyền thuyết, lai lịch có thể xuất phát từ tỉnh Lạng Sơn, theo câu ca dao :

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.

Đồng Đăng là một thị trấn sát biên giới Việt-Hoa, thông qua cửa ải Nam Quan, nơi trấn đóng của lính thú thời xưa lo gìn giữ biên cương, phố Kỳ Lừa có chợ Kỳ Lừa, đọc lại từ tiếng thổ (háng khau từ) có nghĩa là ‘chợ đồi con lừa’, là nơi sinh hoạt buôn bán sầm uất của xứ Lạng thời bấy giờ. Động Tam Thanh là một hang động đẹp nổi tiếng, trong đó có một ngôi chùa cổ, trên hòn núi đá gần khu động Tam Thanh, có một tảng đá nhô ra, chênh vênh giống như hình tượng một thiếu phụ đứng nhìn về phía biên cương, mỏi mòn chờ chồng chinh chiến trở về, người ta nói đó là nàng Tô Thị, đứng chờ chồng lâu ngày đã hóa thành đá, cũng có truyền thuyết cho rằng ‘đó là nàng con gái họ Tô, bồng con đứng đợi chồng, lâu ngày đến nỗi hóa đá, thành hòn vọng phu’.

Kết Luận

Phụ nữ VN trong truyền thuyết đều là những người đàn bà nổi tiếng tài ba, những anh hùng bất khuất, những hiền phụ, hết lòng, hết dạ lo cho chồng cho con, đó là những vị Thái Hậu, Hoàng Hậu, Công Chúa, những vị nữ văn nhân, thi sĩ, những nữ tướng và những bà mẹ VN không tên tuổi.

Trước hết là để chứng minh phụ nữ VN từ ngàn xưa, đã là những người đáng kính phục cả về tài ba lẫn đức hạnh, là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo.

Tài liệu tham khảo từ báo chí
Vinh Phan

Ban Biên Tập

https://binhgia.net BÌNH GIẢ - Quê Hương Yêu Dấu
Follow Me:

Trả lời