Lời Giới Thiệu
Hội Ung Thư Việt Mỹ (Vietnamese American Cancer Foundation) chân thành cảm tạ bác sĩ tác giả Christopher Xuân-Dương Bùi đã cho phép Hội tái bản cuốn sách quý giá này. Hội cũng cảm tạ các công ty dược phẩm và các nhà mạnh thường quân đã tài trợ vô điều kiện cho việc ấn loát và phát hành.
Hội Ung Thư Việt Mỹ hy vọng cuốn sách Sống Với Bệnh Viêm Gan này sẽ giúp quý vị có một khái niệm tổng quát về cách truy tầm, chẩn bệnh, và chữa trị bệnh viêm gan. Tuy nhiên, tập sách này không thể thay thế cho những việc hướng dẫn và chăm sóc của các chuyên viên y tế cho từng mỗi cá nhân hoặc tâm lý. Nếu cần biết thêm về những điều nêu ra trong tập này, xin quý vị tham khảo với bác sĩ hoặc những người chăm sóc sức khỏe của quý vị.
- Gan và Chức Năng của Gan – Liver and Its Functions
- Bệnh Viêm Gan A – Hepatitis A
- Bệnh Viêm Gan B – Hepatitis B
- Bệnh Viêm Gan C – Hepatitis C
- Bệnh Viêm Gan D – Hepatitis D
- Bệnh Viêm Gan E – Hepatitis E
- Chai Gan – Liver Cirrhosis
- Dinh Dưỡng Cho Người Bị Viêm Gan – Nutrition for People with Hepatitis
- Sống Với Người Bị Viêm Gan – Living with People with Hepatitis
- Từ Y Khoa dùng trong sách này – Glossary of Medical Terms used in this book
GAN VÀ CHỨC NĂNG CỦA GAN
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
- Gan là cơ quan lớn nhất trong cơ thể (nếu không kể da).
- Gan nằm bên tay phải, dưới lồng ngực phải.
- Gan đóng nhiều vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo trì sức khỏe của chúng ta.
- Gan là cơ quan chính để thanh lọc độc tố.
- Gan là cơ quan quan trọng nhất trong việc chuyển hóa thức ăn và dự trữ nhiên liệu dưới nhiều dạng khác nhau.
- Gan là cơ quan chính bào chế một số chất đạm, chất mật, chất acid mỡ, v.v.
I. GAN
Gan là cơ quan duy nhất trong cơ thể cùng một lúc tiếp nhận máu từ 2 nguồn khác nhau: 30% từ tim và 70% từ tĩnh mạch cửa (portal vein). Máu từ tim với các dưỡng khí và nhiên liệu sẽ nuôi dưỡng các tế bào gan. Máu đến từ tĩnh mạch cửa nhận máu từ những cơ quan như bao tử (stomach), lá lách (spleen), tụy tạng (pancreas), túi mật (gallbladder), ruột non (small intestine), ruột già (colon), cũng như các cơ quan khác nhau trong bụng. Vì gan là cơ quan đầu tiên, tiếp nhận các chất dinh dưỡng và hóa tố khác nhau hấp thụ từ hệ thống tiêu hóa, gan đã trở thành “nhà máy lọc máu” chính và quan trọng nhất trong cơ thể. Thức ăn và tất cả các nhiên liệu, vì thế, sẽ phải đi qua gan trước để được thanh lọc và biến chế thành những vật liệu khác nhau. Ðây cũng là nguyên nhân chính mà ung thư từ nhiều cơ quan và bộ phận khác có thể lan sang gan một cách dễ dàng.
II. CHỨC NĂNG CỦA GAN
CHUYỂN HÓA NHIÊN LIỆU
1) CHUYỂN HÓA CHẤT ÐƯỜNG: Ðường là nguồn năng lượng chính cho óc, hồng huyết cầu, bắp thịt và thận. Khi sự cung cấp nhiên liệu và thức ăn từ hệ thống tiêu hóa bị gián đoạn, sự sống còn của các tế bào và cơ quan kể trên sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào gan. Trong thời gian “nhịn ăn” này, gan là cơ quan chính chế tạo và cung cấp chất đường cho cơ thể, nhất là cho óc. Khi gan bị chai, khả năng biến hóa chất đường bị tổn thương dễ đưa đến sự thăng giảm thất thường của chất đường trong máu.
Tinh bột (starch) cũng là một dạng tồn trữ chất đường trong nhiều loại thực vật khác nhau như gạo, mì, khoai, v.v. Khi chúng ta ăn cơm, tinh bột từ gạo sẽ được chuyển hóa thành nhiều đơn vị đường khác nhau. Vì thế, khi tiêu thụ thức ăn với nhiều tinh bột, chất đường trong máu của chúng ta sẽ tăng lên chậm chạp hơn, so với trường hợp nếu chúng ta uống một ly nước nho với toàn là đường đơn.
4) THANH LỌC ÐỘC TỐ
Gan và thận là hai cơ quan chính trong cơ thể có khả năng loại bỏ các độc tố. Những độc tố dễ-tan-trong-nước (water-soluble) sẽ được loại qua thận. Những độc tố tan-trong-mỡ (lipid-soluble), sẽ được biến chế bởi những tế bào gan thành những chất kém nguy hiểm hơn, hoặc dễ hòa tan trong nước hơn. Khi gan bị chai, những độc tố sẽ ứ đọng lại trong cơ thể.
5) TỔNG HỢP CHẤT MẬT
Chất mật (bile) sau khi được chế tạo trong tế bào gan, sẽ được cô đọng và dự trữ trong túi mật. Sau mỗi bữa cơm, chất mật sẽ theo ống dẫn mật đi xuống tá tràng, trà trộn với thức ăn và giúp cơ thể nhũ hóa các chất béo. Khả năng sản xuất chất mật của người bị chai gan sẽ từ từ giảm dần gây ra trở ngại trong vấn đề hấp thụ chất mỡ và chất béo. Vì thế, họ sẽ dần dần mất ký rồi trở nên thiếu dinh dưỡng cũng như thiếu những vitamins tan-trong-mỡ như vitamin A, D, E, K. Khi thiếu vitamin K, họ sẽ dễ bị chảy máu hơn.
Tóm lại, gan đóng nhiều vai trò quan trọng trong việc bảo tồn sức khỏe của chúng ta. Gan được so sánh như người lính dũng cảm, canh gác những tiền đồn, giao tranh và phân giải tất cả các hóa tố đến từ hệ thống tiêu hóa, cũng như những cặn bã từ những hệ thống khác “lang thang” trong máu. Vì thế, một trong những nhiệm vụ chính của gan là thanh lọc độc tố. Tuy nhiên, vì không hoàn toàn là một “bộ phận siêu Việt” (super organ), gan cũng có thể bị tàn phá bởi độc tố, vi trùng, vi khuẩn và nhiều bệnh tật khác nhau. May mắn thay, với khả năng tự tái tạo, trong đa số trường hợp viêm gan kinh niên (còn được gọi là mãn tính), gan vẫn tiếp tục hoạt động một cách tương đối bình thường trong một thời gian lâu dài.
BỆNH VIÊM GAN A
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
- Bệnh viêm gan A rất dễ lây qua thức ăn nước uống, nên hầu như tất cả chúng ta nếu sinh trưởng tại quê nhà đều đã bị lây bệnh này (mà không hề hay biết).
- Bệnh thường không gây ra một triệu chứng nào, và nếu có, không cần chữa tự nhiên cũng hết.
- Bệnh có thể chích ngừa được. Thuốc rất an toàn và công hiệu.
- Bệnh không gây ra bệnh viêm gan kinh niên, nên sẽ không đưa đến chai gan và ung thư gan như các bệnh viêm gan B, C và D.
- Người được miễn nhiễm, khi thử máu chất đề kháng HAV-IgG sẽ dương tính.
Trong Ðệ Nhị Thế Chiến một cơn dịch cảm cúm lan tràn nhanh chóng tại Ðức quốc với khoảng 200 ngàn lính Mỹ và hơn 5 triệu dân địa phương bỗng dưng ngã bệnh. Lúc bấy giờ vì chưa hiểu rõ nguyên nhân một cách chính xác, họ đinh ninh rằng bệnh nhân bị ngộ nước hoặc trúng độc. Rồi vào những năm 1930 với phẫu thuật lấy tế bào gan gọi là sinh thiết gan (liver biopsy) để khảo nghiệm dưới kính hiển vi, y khoa đã tiến một bước rất dài trong việc định bệnh viêm gan. Nhưng tới mãi năm 1973 người ta mới nhận diện được hình thù vi khuẩn viêm gan A trong cơ thể của người bệnh. Với sự khám phá này, y khoa đã tìm được nguyên nhân chính của những “cơn ngã nước”bí ẩn ngày xưa. Vào đầu năm 1988, bệnh viêm gan A lại một lần nữa đột xuất và lan rộng một cách nhanh chóng tại thành phố Shanghai. Chỉ trong vòng 2 tháng trời, hơn 300,000 dân chúng tại đây đã bị bệnh viêm gan A, gây ra nhiều thiệt hại đáng kể. Ngay cả trên nước Mỹ, viêm gan A đã và đang là một căn bệnh truyền nhiễm đáng ngại, với khoảng 10 đến 20% bệnh nhân viêm gan A phải nhập viện chữa trị, gây ra tổn phí hơn 200 triệu dollars vào năm 1989, tương đương với hơn 300 triệu dollars cho năm 1997.
CÁCH THỨC LÂY BỆNH VIÊM GAN A
Trong thiên nhiên, vi khuẩn viêm gan A được tìm thấy khắp nơi trên thế giới, nhưng vẫn nhiều nhất ở các nước chậm tiến, kém mở mang, thiếu vệ sinh. Khi vi khuẩn viêm gan A theo thức ăn hoặc nước uống xâm nhập vào cơ thể, chúng sinh sôi nẩy nở một cách nhanh chóng trong các tế bào gan. Từ đó chúng theo ống dẫn mật xuống đường ruột và theo phân đi ra ngoài. Nhờ vào một lớp vỏ kiên cố, vi khuẩn viêm gan A có thể sống sót trong vòng nhiều năm với nhiệt độ đông lạnh như 20 độ C. Hoặc khi bị phơi khô, vi khuẩn viêm gan A vẫn tiếp tục giữ trạng thái nguyên vẹn trong vòng nhiều tuần lễ. Trong ao lầy các loại ốc sò có thể bị nhiễm trùng. Nếu không được nấu kỹ, chúng có thể gây ra bệnh viêm gan A. Ngay cả tắm ao hoặc hồ bơi công cộng khi không đủ chất Chlorine cũng có thể là một trong những nguyên nhân bị lây bệnh viêm gan A. Khi đun sôi thức ăn (hơn 85 độ C) trong vòng 1 phút, vi khuẩn viêm gan A sẽ bị tiêu hủy dễ dàng.
AI CÓ THỂ BỊ VIÊM GAN A?
Bản đồ sau đây cho thấy những tiểu bang Hoa Kỳ với những tỷ lệ của bệnh viêm gan A. Các tiểu bang như Arizona, Alaska, Oregon, New Mexico, Utah, Washington có tỷ lệ bệnh viêm gan A cao nhất nước Mỹ, với khoảng 30 đến 48 bệnh nhân trong 100,000 người, mỗi năm.
TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN A
Triệu chứng của bệnh viêm gan A có thể thay đổi tùy theo lứa tuổi của bệnh nhân khi bị lây bệnh. Càng trẻ tuổi chừng nào, bệnh càng nhẹ chừng nấy. Hơn 80% trẻ em dưới 2 tuổi, khi bị lây, thường không có bất cứ một triệu chứng nào. Ngược lại hơn 80% bệnh nhân lớn hơn 6 tuổi sẽ bị bệnh viêm gan A “hành hạ” với những triệu chứng tiêu biểu từ rất nhẹ đến rất nặng. Càng lớn tuổi chừng nào, các triệu chứng của bệnh viêm gan A càng nặng chừng nấy. Và tùy theo sức khỏe của mỗi cá nhân bệnh có thể phát triển thành một trong 5 trường hợp sau đây:
1) Viêm gan thầm lặng (asymptomatic)2) Viêm gan tiêu biểu (classical hepatitis)3) Viêm gan với vàng da kinh niên (cholestatic)4) Viêm gan tái phát nhiều lần (relapsing)5) Viêm gan ác tính (fulminant hepatitis)
VIÊM GAN THẦM LẶNG
VIÊM GAN TIÊU BIỂU
Viêm gan với vàng da kinh niên
Viêm gan tái phát nhiều lần
Viêm gan ác tính
Tóm lại, tuy vi khuẩn viêm gan A được xem là vi khuẩn “hiền” nhất so với các loại vi khuẩn viêm gan khác, mỗi năm trên nước MỹÔ khoảng 100 người thiệt mạng vì bệnh viêm gan A. Hơn nữa, tuy đa số bệnh nhân có thể tự phục hồi một cách nhanh chóng, một số bệnh nhân kém may mắn hơn (từ 11 đến 22%) phải nhập viện để chữa trị với chi phí từ $1,817 đến $2,459 cho mỗi bệnh nhân.
CÁCH ÐỊNH BỆNH VIÊM GAN A
Họa đồ sau đây cho thấy, một khi hồi phục, cơ thể chúng ta sẽ có kháng thể chống lại bệnh viêm gan A gần như suốt đời:
CÁCH CHỮA BỆNH VIÊM GAN A
THUỐC UỐNG:
Thí dụ điển hình như Ribavirin, Isoprinosine, Levamisole, v.v. Tiếc thay cho tới nay, vẫn chưa có một phương pháp cũng như thuốc men nào khả quan và hữu hiệu có thể rút ngắn thời gian lành bệnh, một khi vi khuẩn viêm gan A đã xâm nhập vào cơ thể người bệnh.
GAMMA GLOBULIN
DƯỢC THẢO:
TỊNH DƯỠNG:
“ÐAU ÐÂU CHỮA ÐÓ” (SYMPTOMATIC TREATMENT)
NHẬP VIỆN:
CHÍCH NGỪA VIÊM GAN A
AI CẦN CHÍCH NGỪA VIÊM GAN A?
1) Tất cả các trẻ em lớn lên từ các tiểu bang có tỷ lệ bệnh viêm gan A cao hơn bình thường như Arizona, Alaska, Oregon, New Mexico, Missouri, Texas, Utah, Washington, Arkansas.2) Các trẻ em lớn lên trong những cộng đồng hoặc địa phương với tỷ lệ viêm gan A cao hơn bình thường. Ðiều này có nghĩa là các con em chúng ta đang sống trong cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, cần được chích ngừa bệnh viêm gan A. Thông thường nên chích cho các em từ 2 tuổi trở lên.
3) Tất cả những du khách hoặc nhân viên làm việc thường trú tại những nước có tỷ lệ viêm gan cao hoặc tương đối cao. Nếu dựa theo bản đồ thế giới hình số 2-2, trang số 4, trong đó có tất cả các nước Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La-tin, phía đông Châu Âu v.v. Khi chích thuốc, cần phải chích ít nhất 4 tuần lễ trước khi đi du lịch.4) Người Việt Nam trưởng thành tại quê nhà, có lẽ đã bị lây bệnh trong quá khứ, nên đã được miễn nhiễm. Nhưng nếu trong máu chưa có chất kháng thể HAV-IgG, họ nên chích ngừa để tránh bị lây bệnh. Những trẻ em trưởng thành tại Hoa Kỳ, không cần thử kháng thể HAV-IgG trước khi đi chích ngừa.
PHƯƠNG PHÁP CHÍCH NGỪA:
Có hai phương thức chích ngừa:
1) Chích ngừa chủ động (active vaccination): chích thuốc để huấn luyện cơ thể chúng ta cách thức tự chế tạo ra kháng thể (Immune Globulin, viết tắc là IG).2) Chích ngừa thụ động (passive vaccination): hóa giải vi khuẩn bằng kháng thể (IG) của người khác. Ðây là phương pháp chích ngừa tạm thời mà thôi.
CHÍCH NGỪA CHỦ ÐỘNG
HAVRIX
Tuổi tác | Số lần chích | Thời gian chích | Số lượng thuốc |
Trẻ em từ 2 đến 18 tuổi |
2 lần | 0 và 6 – 12 tháng | 720 ELISA đơn vị |
3 lần | 0, 1 và 6 – 12 tháng | 360 ELISA đơn vị | |
Người lớn > 18 tuổi | 2 lần | 0 và 6 – 12 tháng | 1440 ELISA đơn vị |
VAQTA
Tuổi tác | Số lần chích | Thời gian chích | Số lượng thuốc |
Trẻ em từ 2 đến 17 tuổi |
2 lần | 0 và 6 – 12 tháng | 25 đơn vị |
Người lớn > 17 tuổi | 2 lần | 0 và 6 – 12 tháng | 50 đơn vị |
CHÍCH NGỪA THỤ ÐỘNG
Thuốc chích ngừa được xem là rất an toàn, nên ngay cả những người mẹ trong lúc thai ngén hoặc khi cho con bú vẫn có thể chích được. Chỉ trong một ít trường hợp kém may, một số bệnh nhân có thể bị một vài phản ứng phụ hoặc biến chứng như đau nhức, nổi ngứa, ngất xỉu, v.v. Ðiều này hiếm khi xẩy ra.
Phương pháp chích ngừa này được ứng dụng cho những trường hợp sau đây:
a) Sau khi tiếp xúc với người có bệnh, như trong những trường hợp bệnh viêm gan A bộc phát tại các trường học hay vườn giữ trẻ (Kindergarden).b) Du lịch đến những nước dễ lây bệnh trong vòng một tháng.
NHỮNG CÁCH THỨC PHÒNG NGỪA BỆNH VIÊM GAN A
1) Rửa tay bằng xà-bông trước và sau mỗi lần dùng nhà cầu hoặc thay tã cho con em.
2) Rửa tay cẩn thận trước khi và sau khi ăn cũng như làm bếp.
3) Các bát đĩa của bệnh nhân phải được rửa sạch sẽ.
4) Tránh quan hệ tình dục với người bệnh viêm gan A (trong thời gian ủ bệnh).
BỆNH VIÊM GAN B
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
-
Trên thế giới có khoảng 2 tỷ người bị nhiễm trùng và khoảng 400 triệu người đang bị bệnh viêm gan B kinh niên, trong đó sẽ có khoảng 250 ngàn người thiệt mạng mỗi năm.
-
Một trong 6 đến 7 người Việt Nam đang bị nhiễm vi khuẩn viêm gan B. Một trong 20 công dân Hoa Kỳ bị nhiễm vi khuẩn viêm gan B.
-
Vi khuẩn viêm gan B là nguyên nhân thường xuyên nhất đưa đến chai gan và ung thư gan trong cộng đồng người Việt.
-
Hơn 80% phụ nữ Á Châu trong thời kỳ sanh đẻ đã và đang bị nhiễm trùng với vi khuẩn viêm gan B, và vì thế có thể lây bệnh của mình cho bé sơ sinh một cách dễ dàng.
-
Bệnh cũng lây qua máu và kim chích cũng như vấn đề sinh lý.
- Ðã có thuốc chích ngừa viêm gan B rất hiệu nghiệm.
-
Bệnh có thể chữa trị bằng thuốc uống hoặc thuốc chích dưới da.
-
Bệnh sẽ bị nặng hơn, nếu cùng một lúc bệnh nhân bị nhiễm trùng bởi nhiều loại vi khuẩn viêm gan khác nhau.
- Rượu, bia và một số thuốc men trong đó có dược thảo có thể làm gan chai lẹ hơn.
Việt Nam là một trong những nước với tỷ lệ viêm gan B cao nhất thế giới. Dựa theo thống kê đăng tải trên Current Probl. Cancer 6, một trong 4 người Việt đang nhiễm vi khuẩn viêm gan B (nghĩa là khoảng 25% tổng số dân chúng có thể lây bệnh của mình cho người khác, mà không hề hay biết). Theo một trong những thống kê mới nhất thì tỷ lệ người mang bệnh là khoảng 17%. Tuy trong những năm vừa qua, khi chích ngừa bệnh viêm gan B tại Việt Nam được ứng dụng một cách quy mô hơn, con số bệnh nhân bị bệnh viêm gan B, chỉ thuyên giảm một cách chậm chạp. Dựa theo một nghiên cứu của Hipgrave đăng trên tờ The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene (2003), trong lúc thử nghiệm khoảng 1350 dân chúng sống trong địa hạt Thanh Hóa, có khoảng 12.5% bé sơ sinh (từ 9 đến 18 tháng), 18.4% trẻ em (từ 4 đến 6 tuổi), 20.5% thanh niên, thiếu nữ (từ 14 đến 16 tuổi) và 18.8% người lớn (từ 25 đến 40 tuổi) đang bị nhiễm trùng bởi vi khuẩn viêm gan B. Cũng dựa theo tài liệu này, sẽ có khoảng 15-25% bệnh nhân viêm gan B kinh niên, nghĩa là khoảng 3.5 triệu người đang sống tại Việt Nam sẽ lìa trần vì những biến chứng của bệnh này. Ðây là một con số rất đáng ngại cho một nước xấp xỉ 100 triệu dân.
Sau đây là tổng số người Việt Nam đã bị nhiễm trùng bởi vi khuẩn viêm gan B trong quá khứ. Trong số này, nhiều người đã hết bệnh và có chất đề kháng chống lại vi khuẩn viêm gan B (họ đã được miễn nhiễm). Những thống kê này cho thấy người Việt Nam đã bị lây bệnh rất nhiều trong lúc lớn lên tại quê nhà.
Tổng số bệnh nhân Việt Nam đã bị nhiễm trùng bởi vi khuẩn
viêm gan B, tùy theo tuổi tác và phái giới. Tài liệu của Hipgrave (2003)
LỊCH SỬ CỦA VI KHUẨN VIÊM GAN B
Rồi vào năm 1970 vi khuẩn viêm gan B được nhận diện dưới kính hiển vi điện tử bởi khoa học gia Dane. Phân tử này (danh từ y khoa là Dane particle) với kích thước là 42 nm, có một vỏ bên ngoài chứa kháng nguyên HbsAg và một nhân bên trong gồm chất DNA của vi khuẩn viêm gan B và chất đạm gọi là core protein. Chất nhân đạm này có thể khám phá khi thử máu (HbcAg). Và khám phá này, đã đánh dấu một bước tiến vô cùng quan trọng trong việc định bệnh viêm gan.
ÐẶC TÍNH CỦA VI KHUẨN VIÊM GAN B
LỚP VỎ VỮNG CHẮC:
CÁCH KHỬ TRÙNG
AI CÓ THỂ BỊ VIÊM GAN B?
1) LÂY QUA MÁU:
Ngày nay với những phương pháp thử máu chính xác, truyền máu trở nên rất an toàn. Chỉ 1 trong 63.000 đơn vị máu mới có một túi máu bị nhiễm khuẩn.
2) LÂY QUA DỤNG CỤ THIẾU VỆ SINH:
Một ít vi khuẩn viêm gan B cũng có thể xâm nhập vào cơ thể chúng ta trong lúc châm cứu (acupuncture), xâm mình (tattoo), xỏ tai (ear piercing), cạo gió (coin rubbing), lể (skin punct-ure) với những dụng cụ dơ bẩn, nhiễm trùng.
Tại Hoa Kỳ, những người nghiện cần sa thường dùng kim chích của nhau, nên lây bệnh cho nhau dễ dàng và nhanh chóng. Dùng chung đồ cạo râu, tông đơ cắt tóc hoặc bàn chải đánh răng với người bệnh cũng có thể bị lây bệnh.
3) LÂY QUA ÐƯỜNG SINH LÝ:
4) LÂY TỪ MÁU CỦA MẸ TRONG LÚC RA ÐỜI:
Vì thế, đây là một trong những lãnh vực y tế quan trọng nhất cần được cải thiện và tân tiến hóa một cách cấp bách và triệt để, hầu thuyên giảm nạn viêm gan B, đã và đang lan tràn khắp nơi trên quê hương chúng ta. Tại Hoa Kỳ, tất cả các phụ nữ trong lúc thai nghén đều được truy tầm bệnh viêm gan B. Nếu người mẹ có vi khuẩn viêm gan B, các bé sơ sinh sẽ được chích ngừa ngay lập tức khi vừa mới chào đời (post-exposure vaccination). Thông thường bé sẽ được chích 2 mũi thuốc khác nhau. (Xin xem phần chích ngừa viêm gan B). Nhờ thế, đa số các em sẽ thoát được căn bệnh hiểm nghèo này.
Tiếc thay, khoảng 10% đến 15% các bé sơ sinh kém may mắn hơn, tuy đã được chích ngừa hẳn hoi và đúng theo sách vở vẫn bị lây bệnh trong lúc ra đời từ người mẹ có bệnh viêm gan B. Tương tự như viêm gan C, sanh đẻ tự nhiên hoặc giải phẫu lấy con (C-section) đều có tỷ lệ lây bệnh tương tự như nhau. Bé sẽ dễ bị lây bệnh hơn, nếu trong máu của người mẹ chứa đựng nhiều vi khuẩn viêm gan B.
5) LÂY QUA NHỮNG VẾT TRẦY TRỤA, NỨT NẺ TRÊN DA:
6) LÂY QUA CÔN TRÙNG:
Tóm lại, bệnh viêm gan B dễ lây nhất qua máu, kim chích thiếu khử trùng và qua đường sinh lý. Bệnh cũng có thể truyền qua mồ hôi và nước bọt, nhưng điều này khó xẩy ra hơn.
ÐỊNH BỆNH VIÊM GAN B
1) THỬ MÁU:
a) HBsAg (thay thế cho danh từ Australian Antigen):
Ðây là cuộc thử nghiệm máu quan trọng và chính yếu nhất để khám phá ra bệnh viêm gan B. HBsAg là kháng nguyên mặt ngoài của vi khuẩn viêm gan B viết tắt từ Hepatitis B surface Antigen. Nếu dương tính, cơ thể đang bị nhiễm trùng. Chất HBsAg sẽ tăng nhanh từ 1 đến 10 tuần lễ sau khi bị lây bệnh. Nếu cơ thể có khả năng tự chữa bệnh, HBsAg sẽ từ từ giảm dần và hoàn toàn biến mất trong vòng 4 đến 6 tháng. Nếu chất HBsAg không biến đi và tiếp tục kéo dài hơn 6 tháng, bệnh không hết và bước sang giai đoạn nguy hiểm hơn: viêm gan B kinh niên (chronic hepatitis).
b) HBsAb (cũng được gọi là Anti-HBs)
Ðây là kháng thể chống lại kháng nguyên mặt ngoài, viết tắt từ chữ Hepatitis B surface Antibody. Với kháng thể này, cơ thể đã có vũ khí chống lại vi khuẩn viêm gan B. Nói một cách khoa học, chúng ta đã được miễn nhiễm (immune). Tiếc thay, điều này không hoàn toàn giản dị như vậy. Trong thiên nhiên, có nhiều loại vi khuẩn viêm gan B khác nhau. Tùy theo mẫu tín hiệu (codon) trên nhiễm thể DNA, vi khuẩn viêm gan B sẽ được phân chia thành 6 di truyền hình (genotypes) và 4 tiểu loại (subtypes) chính.Ðể tiêu diệt mỗi một loại vi khuẩn, cơ thể chúng ta cần một loại vũ khí khác nhau. May mắn thay, đa số bệnh nhân một khi đã được miễn nhiễm, chất HBsAb của họ sẽ có khả năng tiêu diệt tất cả các loại viêm gan B kể trên. Chỉ trong 25% bệnh nhân còn lại, chất kháng thể của họ chỉ đủ sức hóa giải một vài loại vi khuẩn viêm gan B trong cơ thể mà thôi. Vì thế, những người này tuy là có vào trong người, nhưng vẫn bị đánh đau bởi các “anh em” viêm gan B. Trong trường hợp này, máu của bệnh nhân sẽ có cả kháng thể lẫn kháng nguyên mặt ngoài của vi khuẩn viêm gan B (HBsAb và HBsAg đều dương tính cùng một lúc). Những người này được xem là đang bị nhiễm trùng bởi vi khuẩn viêm gan B, và có thể cần phải chữa trị.
c) HBcAb (cũng được gọi là Anti-HBc)
Ðây là kháng thể chống lại kháng nguyên của nhân vi khuẩn viêm gan B, viết tắt từ chữ Hepatitis B core Antibody. Người ta phân biệt 2 loại kháng thể khác nhau: IgM và IgG. HBcAb IgM tăng cao trong một thời gian ngắn khi gan bị viêm cấp tính, và được xem là kháng thể nhất thời, dương tính trong lúc “dầu sôi lửa bỏng”, Sau một thời gian ngắn, chất IgM này sẽ từ từ giảm dần, nhường chỗ cho kháng thể kinh niên: HBcAb IgG. IgG được xem là kinh niên vì chúng sẽ dương tính trong một thời gian lâu dài.Ðôi khi, chất kháng thể nhất thời HBcAb-IgM tăng cao trở lại trong máu của bệnh nhân viêm gan kinh niên, khi trạng thái của gan bỗng dưng “nóng bỏng” trở lại hoặc bệnh trở nên trầm trọng hơn xưa (exacerbations).
Nói một cách dễ hiểu, mỗi lần “nhà cháy lớn”, chất IgM của HBcAb sẽ tăng cao. Mỗi lần nắng lớn hơn, lá gan sẽ chóng khô hơn. Vì thế, sự thay đổi của chất IgM này có thể được dùng để theo dõi tiến triển của bệnh trong lúc chữa trị.Tóm lại, HBcAb sẽ dương tính khi cơ thể chúng ta đã có dịp tiếp xúc với vi khuẩn viêm gan B. Nếu vừa mới bị lây và bệnh còn đang “nóng hổi” chất IgM sẽ tăng cao. Nếu đã bị bệnh trong quá khứ xa xôi chất IgG sẽ dương tính. Vì thế, để thuyên giảm nguy cơ lây bệnh viêm gan B trong lúc nhận máu, hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ dùng phương pháp thử máu này cho tất cả những người đi hiến máu (blood donors). Các đơn vị máu có chứa chất HBcAb sẽ bị loại bỏ.
d) HBeAg và HBeAb (cũng được gọi là Anti-HBe):
Ðây là một trong những thử nghiệm máu rất quan trọng trong việc định và chữa bệnh viêm gan B. Kháng nguyên HBe nếu dương tính (HBeAg positive) có nghĩa là vi khuẩn viêm gan B đang sinh sôi nẩy nở trong cơ thể chúng ta một cách nhanh chóng (replication) và (có thể) chúng cũng đang tấn công và tàn phá tế bào gan một cách không ngừng (infectivity). Người có chất HBeAg có thể lây bệnh của mình qua người khác một cách dễ dàng. Và đây có thể là lý do chính yếu mà bé sơ sinh Việt Nam dễ bị lây bệnh khi vừa mới chào đời. Người ta ước đoán từ 40 đến 50% phụ nữ Á Châu trong lứa tuổi sanh đẻ bị nhiễm trùng vi khuẩn viêm gan A với chất HBeAg dương tính. Ngoài ra tại Hoa Kỳ, một số trường nha khoa từ chối không thâu nhận những sinh viên vào trường nếu kháng nguyên này dương tính.Trong một số trường hợp may mắn, cơ thể từ từ tiêu diệt kháng nguyên này bằng một kháng thể đặc biệt với tên là HBeAb (Seroconversion). Sự hiện diện của HBeAb có thể là một dấu hiệu cho biết gan đang trên đường phục hồi và từ từ hết bệnh.
Trong thiên nhiên, đa số vi khuẩn viêm gan B có khả năng bài tiết kháng nguyên HBeAG, và vì thế được gọi là wild type. Các loại vi khuẩn này có thể thay đổi và biến thành một dạng khác khó chữa trị hơn. Tuy vẫn sinh sôi nẩy nở một cách rất nhanh chóng, chúng không hề bài tiết kháng nguyên HBeAG. Danh từ y khoa gọi là pre-core mutant. Người Việt chúng ta thường bị tấn công bởi một loại vi khuẩn này, gây ra khá nhiều rắc rối trong lúc chữa bệnh. Sự biến dạng của vi khuẩn wild type thành pre-core mutant có thể được xem là một thất bại của hệ thống miễn nhiễm trong việc bảo vệ cơ thể của chúng ta trước sự tàn phá của các loại vi khuẩn trong thiên nhiên.
e) Quantitate HBV DNA
Ðây là một thử nghiệm máu cầu kỳ và tốn kém. Trong phương pháp này, tổng số vi khuẩn viêm gan B di chuyển trong máu sẽ được xác định rõ ràng. Tuy số lượng vi khuẩn viêm gan B trong máu không nhất thiết phản ảnh trạng thái bệnh tật của tế bào gan, nhưng đây là một cách thức theo dõi tiến triển bệnh tương đối chính xác trong khi chữa trị.
f) ALT & AST
Ðây là 2 chất hóa học vẫn thường được mệnh danh là liver function test. Khi gan bị viêm, 2 chất hóa học này có khuynh hướng tăng rất cao. Ðể biết thêm chi tiết, xin quý vị đọc chương về Bệnh Viêm Gan C.
2) SIÊU ÂM GAN (Ultrasonography):
3) CT SCAN:
4) LIVER-SPLEEN SCAN:
5) SINH THIẾT GAN (Liver Biopsy):
CƠ THỂ CỦA CHÚNG TA TRƯỚC SỰ TẤN CÔNG CỦA VI KHUẨN VIÊM GAN B
Khi trẻ em hoặc các bé sơ sinh bị lây bệnh, những triệu chứng thường nhẹ hơn so với người lớn. Tuy nhiên khi bị lây bệnh trong lúc ấu thơ, bệnh sẽ dễ trở thành kinh niên hơn. Ngược lại, những triệu chứng của bệnh viêm gan B cấp tính thường nặng hơn cho những bệnh nhân lớn tuổi. May mắn thay, với một hệ thống miễn nhiễm
“già dặn” hơn, ít nhất 90% những bệnh nhân này sẽ hoàn toàn hết bệnh.
Tóm lại, triệu chứng, diễn tiến cũng như hậu quả và biến chứng của bệnh viêm gan B sẽ lệ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như tuổi tác và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân cũng như cách thức khi bệnh nhân bị lây bệnh. Hoạt đồ sau đây tóm tắt quá trình phát triển của bệnh viêm gan B:
VIÊM GAN B CẤP TÍNH
Thông thường bệnh nhân đang khỏe mạnh bỗng dưng cảm thấy mệt mỏi, đau nhức tứ chi, cơ thể khó chịu, hâm hấp sốt. Da bị ngứa hoặc nổi mề đay. Người uể oải, thiếu năng lực, miệng nhạt đắng, buồn nôn, ăn mất ngon. Một số bệnh nhân cảm thấy đau bụng phần trên, dưới xương sườn phải. Một khi da trở nên vàng hoặc nước tiểu trở nên đậm mầu, những triệu chứng đau nhức ban đầu tự nhiên giảm dần một cách nhanh chóng. Bấy giờ bệnh nhân cảm thấy rất khỏe khoắn mặc dù da và mắt trở nên mỗi ngày một vàng hơn. Tình trạng này sẽ kéo dài từ 1 đến 3 tháng.
a) Hoàn toàn hết bệnh
b) B ệnh nằm trong trạng thái “ngủ yên”, hoặc “ít phá hoại hơn”
c) Viêm gan kinh niên
a) Hoàn toàn lành bệnh: Ðây là một chiến thắng lớn. “Quân xâm lấn” đã hoàn toàn bị hệ thống miễn nhiễm đẩy lui và tiêu diệt. Cuộc đụng độ với vi khuẩn đã giúp cơ thể chúng ta chế tạo ra kháng thể HBsAB. Với “vũ khí” phòng thân này, chúng ta sẽ được miễn nhiễm (immune) suốt đời, và không phải lo lắng gì nữa. Nói một cách khác, chúng ta đã được “tạo hóa” chích ngừa một cách miễn phí.
b) Healthy carrier hoặc “ngủ yên” (dormant state): Trong trường hợp này các vi khuẩn viêm gan B trở nên “ngủ yên”. Chúng tăng trưởng chậm chạp và sống hiền hòa hơn, nên không phá hoại tế bào gan như thuở ban đầu. Mặc dầu cơ thể bệnh nhân vẫn chứa đựng một số vi khuẩn viêm gan B, gan của họ vẫn tiếp tục hoạt động một cách rất bình thường. Thật ra danh từ “ngủ yên” hoặc healthy carrier không được hoàn toàn chính xác. Vì trong một số trường hợp, gan vẫn bị tàn phá từ từ gây ra những biến chứng tương tự như trong trường hợp của viêm gan kinh niên. Khi thử máu, kháng nguyên mặt ngoài HBsAG vẫn tiếp tục dương tính. Nhưng chất ALT và AST không bị tăng cao. Ðây là một trạng thái mà cơ thể người bệnh chỉ có thể kềm hãm sự tăng trưởng và giảm thiểu sức tàn phá của vi khuẩn viêm gan B, chứ chưa đủ khả năng loại bỏ và tiêu diệt chúng.
Tuy nhiên, nhờ vào sự kiểm soát này, vi khuẩn viêm gan B không còn đi xâm lấn và tàn phá lá gan một cách đáng sợ, mà chỉ sống rải rác khắp nơi như những “thành phần bất hợp pháp”. Một khi “ngủ say” chúng có khuynh hướng tiếp tục nằm yên không phá phách gây tai hại đến lá gan. Trong một số trường hợp đặc biệt, vi khuẩn viêm gan B đang ngủ yên tự nhiên nổi dậy và đánh phá tế bào gan trở lại (reactivation). May mắn thay, điều này hiếm khi xẩy ra, thường với tỷ lệ dưới 1% mỗi năm.
c) Viêm gan kinh niên: Thông thường phân hóa tố ALT và AST sẽ tăng rất cao trong thời gian viêm gan cấp tính. Các chất hóa học này sẽ từ từ giảm dần và trở lại bình thường trong một thời gian từ 1 đến 4 tháng. Nếu sự bất bình thường của chất ALT/AST kéo dài hơn 6 tháng, bệnh đã bước qua giai đoạn nguy hiểm hơn: viêm gan kinh niên. Khoảng 5% bệnh nhân người lớn, 30% bệnh nhân trẻ em từ 1 đến 5 tuổi và 90% bé sơ sinh lây bệnh khi mới ra đời sẽ nằm trong trường hợp này.
VIÊM GAN B KINH NIÊN (Chronic Active Hepatitis B)
1) AI SẼ BỊ VIÊM GAN B KINH NIÊN?
2) TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN B KINH NIÊN
Nếu thử máu, chất ALT vẫn hoàn toàn bình thường. Ngay cả khi khám nghiệm dưới kính hiển vi, những tế bào gan cũng không hề có dấu hiệu bị viêm đỏ hoặc tổn thương. Sự “nhu mì” và phong cách khoan dung của hệ thống miễn nhiễm trong thời gian này đã tạo cho vi khuẩn viêm gan B một cơ hội tăng trưởng ngày một nhiều hơn. Thời gian tự ấn (replicative phase) này tiếp tục kéo dài chuẩn bị cho những cuộc tàn phá lá gan trong những năm tháng sắp tới.
Thông thường, sau một thời gian từ 15 đến 35 năm, bệnh mới bước qua một giai đoạn mới khi hệ thống miễn nhiễm bỗng dưng “qua cơn mê” và “tỉnh giấc mộng”. Người ta cho rằng, có lẽ vi khuẩn viêm gan B đã lan tràn khắp nơi và trở nên “ồn ào” hơn, gây “chú ý” đến hệ thống miễn nhiễm. Ðiều này đưa đến những cuộc “tổng động viên” toàn diện tiếp nối bởi những cuộc tấn công ồ ạt đến các tế bào gan nhiễm khuẩn (exacerbations).
Các tế bào này bị dung giải và tiêu hủy hàng loạt (bởi hệ thống miễn nhiễm của bệnh nhân), khiến phân hóa tố ALT (cũng như chất AlphaFetoProtein và HBcAb-IgM) tăng cao một cách nhanh chóng. Sự “thức tỉnh” miễn dịch này tuy hơi muộn nhưng vẫn mang lại một số thắng lợi đáng kể. Mỗi năm, nhờ vào đó, từ 10 đến 20% bệnh nhân có thể chặn đứng được sự tăng trưởng của vi khuẩn viêm gan B (HBeAg seroconversion). Ngay cả trong những thời điểm “dầu sôi lửa bỏng” này, đa số bệnh nhân vẫn không có một triệu chứng nào. Chỉ một số ít người có thể bị nóng sốt sơ sài hoặc có một vài triệu chứng điển hình của viêm gan cấp tính.
Ngoài những triệu chứng, như vàng da, buồn nôn, mệt mỏi, và đau bụng lâm râm, vi khuẩn viêm gan B cũng có thể gây ra một số triệu chứng gây ra từ những phức thể miễn nhiễm (immune complexes). Họ có thể bị sốt nóng nhẹ, nổi ngứa, đau nhức mình và khớp xương, hoặc viêm những tĩnh mạch nhỏ đưa đến đau đớn, bệnh tật với nhiều hệ thống và cơ quan khác nhau như tim, phổi, thận, hệ thống tiêu hóa, thần kinh và các bắp thịt. May mắn thay, những trường hợp này ít khi xẩy ra.
Khi bệnh kéo dài lâu năm, gan sẽ bị chai và nguy cơ ung thư gan tăng nhanh. Sau đây là sự nhận xét về mối liên quan giữa ung thư gan với số tuổi của người bệnh viêm gan B tại Ðài Loan. Càng lớn tuổi chừng nào, nguy cơ bị ung thư gan càng cao chừng đó.
Số Tuổi của Bệnh Nhân Viêm Gan B |
Nguy Cơ bị Ung Thư Gan của 100,000 người mỗi năm |
20 – 29 tuổi | 0 |
30 – 39 tuổi | 122 |
40 – 49 tuổi | 274 |
50 – 59 tuổi | 854 |
60 – 69 tuổi | 1331 |
Tóm lại, bệnh viêm gan B có thể đến một cách âm thầm và ra đi một cách lặng lẽ, nên đa số bệnh nhân bị bệnh mà không hề hay biết. Tuy đa số bệnh nhân viêm gan B không cần chữa trị tự nhiên cũng hết bệnh, khoảng 10 đến 20% bệnh nhân viêm gan B kinh niên, nếu không được chữa trị hẳn hoi sẽ bị chai hoặc ung thư gan trong một thời gian từ 20 đến 30 năm sau khi bị lây bệnh. Ðiều này, một lần nữa nhấn mạnh tầm vóc quan trọng trong việc truy tầm bệnh viêm gan B.
CÁCH CHỮA TRỊ BỆNH VIÊM GAN B
1) THUỐC CHÍCH: INTERFERON
a) INTERFERON LÀ GÌ?
Ðây là một chất hóa học do chính cơ thể chúng ta chế tạo để chống lại những bệnh tật như cảm cúm, nhiễm trùng, ung thư v.v. Chất hóa học này sẽ giúp cho các bạch huyết cầu có khả năng tiêu diệt các loại vi trùng và vi khuẩn một cách nhanh chóng hơn, mãnh liệt hơn. Thuốc có thể tiêu diệt những vi khuẩn viêm gan B “lang thang trong máu” một cách trực tiếp cũng như ngăn cản sự tăng trưởng của chúng trong những tế bào gan. Tuy Interferon đã được dùng trong việc chữa trị bệnh viêm gan B và C tại nhiều quốc gia khác nhau trong nhiều năm trước với một thành quả tương đối tốt đẹp, thuốc này mới chỉ được dùng trên nước Mỹ từ đầu năm 1992. Interferon cũng đã được dùng để chữa trị một số bệnh ung thư.
b) PHẢN ỨNG PHỤ THƯỜNG XUYÊN CỦA INTERFERON
Interferon có nhiều phản ứng phụ. Thường xuyên nhất là mệt mỏi, nhức đầu, đau hoặc mỏi bắp thịt, khớp xương, cảm cúm, chóng mặt, buồn nôn, sốt hoặc lạnh rét, mất ngủ, tiêu chảy, rụng tóc, buồn phiền chán nản, bực bội khó chịu. Những phản ứng phụ này thông thường nặng nhất sau những mũi chích đầu tiên và sẽ giảm dần theo thời gian, khi cơ thể bắt đầu quen thuốc.
Thuốc cũng có thể gây ra thiếu máu hoặc bệnh liên quan đến tuyến giáp trạng (thyroid gland) trong lúc và sau khi chích, nên bệnh nhân phải thử máu thường xuyên trong lúc chữa trị. Thông thường bệnh nhân sẽ được thử máu từ một đến hai tuần lễ đầu tiên sau khi chích, và sau đó mỗi tháng một lần, hoặc thường xuyên hơn nếu cần.
Thử máu thường xuyên trong lúc chích thuốc interferon là để theo dõi tiến triển của bệnh cũng như phòng ngừa những phản ứng phụ nguy hiểm của thuốc.
Tuy những phản ứng kể trên có thể xẩy ra một cách thường xuyên, đa số những người chích thuốc Interferon vẫn tiếp tục làm việc hoặc sinh hoạt một cách tương đối bình thường. Những phản ứng phụ này sẽ giảm đi nếu bệnh nhân tập thể dục đều đặn hoặc/và uống 1 đến 2 viên Tylenol 500mg nửa tiếng trước khi chích. Trong lúc chích thuốc, quý vị không phải kiêng khem theo một quy chế nào đặc biệt.Trong những năm gần đây, người ta bào chế ra một loại thuốc Interferon mới, với bán thời (half life) dài hơn, nên chỉ cần chích mỗi tuần một lần. Danh từ y khoa là pegylated interferon. Thuốc này hiệu lực hơn thuốc interferon rất nhiều. Ðể biết thêm chi tiết, xin quý vị đọc chương Bệnh Viêm Gan C.
2) THUỐC UỐNG:
a) LAMIVUDINE
Vào đầu năm 1999, FDA chấp thuận việc sử dụng một loại thuốc uống có khả năng chữa bệnh viêm gan B. Thuốc này có tên là Epivir-HBV (Lamivudine). Ðây là một loại thuốc đã và đang dùng để chữa bệnh AIDS. Thuốc này có khả năng ngăn cản sự bành trướng và tăng trưởng của vi khuẩn viêm gan B bên trong tế bào gan. Ưu điểm quan trọng của phương pháp mới này là thuốc Epivir-HBV có thể uống chứ không phải chích như trong trường hợp của thuốc Interferon. Một lợi điểm đáng kể khác là thuốc Epivir-HBV tương đối an toàn và ít phản ứng phụ và có thể dùng để chữa trị cho những bệnh nhân mà gan có thể đã bị viêm rất nặng hoặc bị chai cũng như cho những bệnh nhân vừa được ghép gan. Thuốc uống mỗi ngày một viên. Thông thường uống thuốc ít nhất là 12 tháng. Trong một số trường hợp (pre-core mutant), bệnh nhân phải uống thuốc suốt đời. Người ta ước đoán khoảng 55% gan của bệnh nhân chữa trị bằng phương pháp này sẽ bớt bị viêm (nghĩa là phân hóa tố ALT trở lại bình thường, kết quả sinh thiết gan trở nên khả quan hơn) và từ 44% đến 57% chỉ số vi khuẩn viêm gan B trong máu giảm xuống rất thấp, trong số này có khoảng 16% sẽ có kháng sinh HBeAb (Ðiều này có nghĩa là vi khuẩn viêm gan B không còn tăng trưởng nhanh chóng nữa). Tuy nhiên thuốc Epivir-HBV thường chỉ “ru ngủ” vi khuẩn viêm gan B chứ không chữa tuyệt được bệnh. Vì thế, bệnh nhân vẫn có thể lây bệnh của mình cho người khác. Trong một số trường hợp vi khuẩn viêm gan B có thể “thay hình đổi dạng” sau một thời gian chữa trị bằng thuốc Epivir HBV. May mắn điều này không có nghĩa là vi khuẩn viêm gan B trở nên “dữ tợn” và nguy hiểm hơn. Trường hợp này tương đối hiếm hoi.
PHẢN ỨNG PHỤ THƯỜNG XUYÊN CỦA EPIVIR-HBVNếu so với thuốc Interferon, Epivir-HBV gây ra rất ít phản ứng phụ. Ða số bệnh nhân uống thuốc Epivir-HBV không có phản ứng nào phụ đáng kể. Một số người có thể bị đau rát cổ họng, cảm cúm hoặc mệt mỏi sơ sài. Trong một vài trường hợp hiếm hoi, bệnh nhân có thể bị đau bụng, ói mửa vì gan bị viêm nặng hơn, hoặc bị viêm tụy tạng (pancreatitis), và sau cùng nguy hiểm hơn cả, là bệnh “nhiễm độc chất acid lactic” (lactic acidosis) và sưng gan trầm trọng (severe hepatomegaly). Ðây là một trường hợp thường xẩy ra ở những phụ nữ quá mập mạp, tuy hiếm hoi nhưng có thể nguy hiểm đến tính mạng. Như tất cả các loại thuốc trụ sinh khác, một số vi khuẩn viêm gan B có thể quen thuốc và trở nên khó chữa hơn.
Tóm lại, tuy thuốc Epivir rất an toàn, thuốc có thể gây ảnh hưởng xấu đến sự tăng trưởng của bào thai. Vì thế, những thiếu nữ khi đang uống thuốc Epivir nên tránh có thai. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, người ta nhận thấy xác xuất truyền bệnh qua bé sơ sinh giảm đi rất nhiều nếu người mẹ mang bệnh viêm gan B được uống thuốc lamivudine khoảng một tháng trước khi hạ sinh. Vì thế các phụ nữ đang mang thai nên thảo luận với bác sĩ của mình về vấn đề này.
b) ADEFOVIR (HEPSERA)
Ðây là một loại thuốc có công thức tương tự như thuốc Epivir-HBV, và cũng có công hiệu cũng như phản ứng phụ tương tự như thuốc Epivir-HBV. Một lợi điểm đáng kể của Adefovir so với thuốc Epivir HBV là loại thuốc mới này không (hoặc nếu có thì rất ít) bị mất đi hiệu nghiệm sau một thời gian chữa bệnh. Vì thế, khi chữa bệnh viêm gan B bằng thuốc Hepsera, các bác sĩ sẽ không còn phải lo lắng về vấn đề vi khuẩn viêm gan B bỗng dưng lờn thuốc và bùng dậy tàn phá tế bào gan của bệnh nhân. Ðây là lý do chính mà ngày nay đa số các y sỹ có khuynh hướng dùng thuốc Hepsera thay thế cho thuốc Epivir-HBV. Uống 10mg Hepsera mỗi ngày có khả năng ngăn cản sự tăng trưởng của vi khuẩn viêm gan B trong trời gian lâu dài.Một điểm vô cùng quan trọng mà quý vị nên lưu ý: xin đừng bỏ uống thuốc Lamivudin hoặc Adefovir một cách bất thình lình, nếu không được sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa của quý vị. Khi bỏ thuốc quá sớm, bệnh viêm gan B có thể “bùng nổ” lớn, gây ra những hậu quả rất tai hại.
c) ZADAXIN THYMOSIN ALPHA 1
Ðây là một loại thuốc chích mới do hãng dược phẩm SciClone sản xuất. Cũng như Interferon, Thymosin Alfpha 1 là một trong những hóa chất điều chỉnh hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Khi chích dưới da 2 lần mỗi tuần, chất hóa học này sẽ tăng lên từ 50 đến 100 lần so với lúc chưa chích. Người ta tin rằng thuốc này có khả năng tăng cường hệ thống miễn nhiễm để chống lại bệnh viêm gan B và viêm gan C. Thuốc có thể chích riêng biệt hoặc dùng kèm với thuốc uống Lamivudin / Adefovir hoặc thuốc chích Interferon. Thuốc đã được bầy bán tại một số các nước Á Châu trong đó có Việt Nam. Một đặc điểm đáng kể của thuốc Zadaxin là thuốc này có thể chữa trị cho những bệnh nhân viêm gan B trong trạng thái khoan dung miễn dịch (immune-tolerant phase). Thuốc được xem là rất an toàn với rất ít phản ứng phụ và hy vọng sẽ được dùng trên nước Mỹ trong một thời gian rất gần đây.
Ngoài những loại thuốc kể trên, một số thuốc khác như Telvibudin, Entecavir, Emtricitabine, Clevudine, BAM-205 v.v. đang được nghiên cứu và thử nghiệm trong việc chữa trị bệnh viêm gan B. Người ta cũng có khuynh hướng dùng nhiều loại thuốc khác nhau để chữa cùng một lúc, với hy vọng tiêu diệt vi khuẩn viêm gan B một cách mau chóng và hiệu quả hơn.
Nhiều bệnh nhân không chết vì bệnh viêm gan B mà lại thiệt mạng vì mắc thêm chứng bệnh khác. Ðó là trường hợp khi bệnh nhân đang bị viêm gan B lại bị lây thêm bệnh viêm gan C, viêm gan D hoặc bệnh AIDS nữa. Hơn nữa, vì trong thiên nhiên có nhiều loại vi khuẩn viêm gan B khác nhau (different genotypes), nên bệnh nhân đang bị viêm gan B loại này vẫn có thể bị lây bệnh viêm gan B với kiểu gene khác. Vì tất cả những bệnh kể trên đều có thể lây qua vấn đề sinh lý, người có bệnh hay chưa có bệnh viêm gan B đều nên đeo bao cao su.
Tóm lại, viêm gan B là một căn bệnh vô cùng tai hại, lan tràn khắp nơi trên thế giới, và tiếp tục bành trướng một cách đáng ngại. Ngày nay, tuy phương tiện định bệnh và cách thức chữa bệnh đã được cải tiến rất nhiều, một số lớn bệnh nhân viêm gan B vẫn tiếp tục từ trần một cách nhanh chóng sau khi bệnh được khám phá. Và tất cả các cách chữa trị hiện nay chỉ có khả năng giảm thiểu sự tàn phá của vị khuẩn viêm gan B chứ không hoàn toàn loại bỏ vi khuẩn ra khỏi cơ thể. Vì thế hơn lúc nào hết, phòng bệnh vẫn hơn chữa bệnh. Nếu được chích ngừa đúng cách, bệnh có thể được ngăn ngừa một cách dễ dàng.
CHÍCH NGỪA VIÊM GAN B
1) CHÍCH NGỪA THỤ ÐỘNG (Passive Immuno-prophylaxis)
– Bé sơ sinh từ mẹ có vi khuẩn viêm gan B trong máu. Vì thế tất cả các phụ nữ trong thời kỳ thai nghén cần phải thử chất HBsAg. Nếu chất này dương tính, các bé sơ sinh từ những người mẹ này PHẢI được chích ngay lập tức hoặc trễ nhất là trong vòng 12 tiếng sau khi ra đời.
– Bệnh nhân sau khi tiếp xúc với máu của người có bệnh như trong trường hợp bị kim nhiễm khuẩn đâm vào người hoặc máu của bệnh nhân viêm gan B văng vào mắt, miệng của mình v.v.
– Những người chưa miễn nhiễm mà lỡ giao hợp với người có bệnh viêm gan B. Ðể thuốc có hiệu lực một cách tối đa, bệnh nhân cần được chích ngừa càng sớm càng tốt. Tốt hơn hết là chích ngay lập tức, hoặc trong vòng 48 tiếng sau khi tiếp xúc với vi khuẩn viêm gan B. Thuốc không còn hiệu lực nữa, nếu chích quá trễ.
– Trong trường hợp ghép gan (liver transplant) cho bệnh nhân viêm gan B. Mục đích chích ngừa trong trường hợp này, để ngăn chặn vi khuẩn viêm gan B đang nằm sẵn trong cơ thể tấn công lá gan vừa mới ghép vào.
2) CHÍCH NGỪA CHỦ ÐỘNG (Active Immunization)
Nhưng vào đầu năm 1991, CDC bắt đầu khuyến khích chích ngừa bệnh viêm gan B cho tất cả các bé sơ sinh. Sau đó vào năm 1994 với ước vọng xóa tan bệnh viêm gan B trên toàn nước Mỹ, họ đã bắt buộc tất cả các trẻ em dưới 11 tuổi phải được chích ngừa viêm gan B, trước khi nhập học. Vì thuốc tương đối rẻ tiền và rất an toàn, nên theo tôi, tất cả những ai chưa có kháng thể chống vi khuẩn viêm gan B (HBsAB), nên chích ngừa bệnh viêm gan B càng sớm càng tốt.
Recombivax HB | Energix B | |||
Số tuổi | Số lần chích | Thời gian chích | Số lượng thuốc | |
Bé sơ sinh từ mẹ với HBsAg- | 3 lần | 0-2, 1-4, và 6-18 tháng | 2.5 mcg |
10 mcg
|
Bé sơ sinh từ mẹ với HBsAg+ | 3 lần | Chích ngừa thụ động với HBIG trong vòng 12 tiếng đầu tiên. Sau đó chích ngừa chủ động vào tháng thứ nhất, thứ 2, vào thứ 6 | 5.0 mcg |
10 mcg
|
Trẻ em từ 1-10 tuổi | 3 lần | 0, từ 1 đến 2, và từ 4 đến 6 tháng | 2.5 mcg | 10 mcg |
Thiếu niên từ 11-19 tuổi | 3 lần | 5.0 mcg | 10 mcg | |
Người lớn > 20 tuổi | 3 lần | 10 mcg | 20 mcg | |
Bệnh nhân với hệ thống miễn nhiễm suy yếu | 3 lần | 0, 1 và 6 tháng | 40 mcg | 40 mcg |
4 lần | 0, 1, 2 và 6 tháng |
CHỦNG NGỪA QUA THỨC ĂN?
BỆNH VIÊM GAN C
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
-
Khoảng 2% dân chúng toàn cầu đang bị viêm gan C.
-
Vi khuẩn viêm gan C là nguyên nhân hàng đầu gây ra viêm gan kinh niên tại Hoa Kỳ.
-
Khoảng 80% bệnh nhân khi bị lây bệnh viêm gan C sẽ trở thành kinh niên. Trong số này, khoảng 20%-30% sẽ bị chai gan và ung thư gan.
-
Trên nước Mỹ, với hơn 4 triệu người đang bị viêm gan C kinh niên, sẽ có từ 8 đến 10 ngàn người lìa trần mỗi năm vì căn bệnh này.
-
1 trong 20 đến 40 người Việt Nam đã và đang bị bệnh viêm gan C kinh niên.
- Ða số bệnh nhân viêm gan C cấp tính và kinh niên đều không có triệu chứng gì đáng kể.
-
Bệnh lây qua máu và vấn đề sinh lý, không lây qua thức ăn và nước uống. Những người có nguy cơ dễ bị viêm gan C nhất, là bệnh nhân đã được nhận máu trước năm 1992.
-
Tùy theo kiểu gene (genotype) của vi khuẩn viêm gan C, gần 90% bệnh nhân viêm gan C kinh niên sẽ được chữa hết bệnh, nếu được khám phá và chữa trị kịp thời.
-
Cho tới nay vẫn chưa có thuốc chích ngừa bệnh viêm gan C.
Vi khuẩn viêm gan C là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến bệnh viêm gan kinh niên tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Người ta ước đoán từ 1 đến 2% tổng số dân chúng toàn cầu, nghĩa là khoảng 100 triệu người đang bị viêm gan C. Với tỷ lệ 1.9%, nước Mỹ có khoảng 4 triệu bệnh nhân viêm gan C. Trong đó sẽ có từ 8 đến 10 ngàn người thiệt mạng mỗi năm.
NGUỒN GỐC CỦA VI KHUẨN VIÊM GAN C
Vi khuẩn viêm gan C là một loại vi khuẩn RNA kỳ lạ với khả năng thay đổi đặc tính di truyền một cách nhanh chóng và dễ dàng. Tuy đã lan tràn khắp nơi trên thế giới từ hơn hai ngàn năm qua, mãi tới những năm 1990, người ta mới khám phá ra sự hiện diện của vi khuẩn này.
Tuy những cơn dịch vàng da lây từ thức ăn và nước uống đã được mô tả từ nhiều năm trước Chúa Giáng Sinh, nhưng mãi đến cuối thế kỷ thứ 19, người ta mới bắt đầu hồ nghi là bệnh viêm gan cũng có thể lây qua máu và kim chích. Rồi hơn 3 phần tư thế kỷ trôi qua, với phát minh của một số phương thức thử nghiệm máu, người ta bắt đầu nhận diện được một loại vi khuẩn viêm gan mới. Qua sự khám phá này, họ tin rằng có 2 loại vi khuẩn gây ra bệnh viêm gan. Một loại lây qua thức ăn; đó là vi khuẩn viêm gan A. Một loại lây qua máu; đó là vi khuẩn viêm gan B. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, người ta nhận thấy điều này không hoàn toàn đúng, vì đa số bệnh nhân viêm gan không phải do vi khuẩn viêm gan A hoặc B gây ra. Vì thế danh từ “non-A, non-B hepatitis” ra đời vào đầu năm 1974, để diễn tả những trường hợp này.
Sau hơn một phần tư thế kỷ, với kỹ thuật nghiên cứu các phân tử cực kỳ nhỏ bé (molecular biologic techniques), các khoa học gia đã khám phá thêm một vi khuẩn viêm gan thứ ba. Ðó là vi khuẩn viêm gan C. Trong vòng một thời gian ngắn, họ đã phát họa được cơ cấu và hình thù của vi khuẩn viêm gan này một cách chi tiết với từng chất hóa học xếp dọc theo thứ tự trên chuỗi nhiễm thể RNA. Khám phá này là một điểm son lịch sử, dẫn đầu cho hàng loạt những khám phá quan trọng kế tiếp trong việc chữa trị bệnh viêm gan C. Song song với những cuộc nghiên cứu công phu và tiƯ miƯ về những bệnh nhiễm trùng khác, nhất là bệnh AIDS, sự hiểu biết về vi khuẩn viêm gan C và cách thức chữa bệnh tiếp tục tăng trưởng một cách rất khả quan.
Tế bào gan đang bị “tấn công” bởi vi khuẩn viêm gan C (VKVG-C), trong khi bạch huyết cầu đang “phản công”
ÐẶC TÍNH CỦA VI KHUẨN VIÊM GAN C
Vi khuẩn viêm gan C cực kỳ nhỏ bé, với đường kính là 50 nm, nên phải nhìn dưới kính hiển vi điện tử mới thấy được. Vi khuẩn được bảo vệ bởi một lớp vỏ kiên cố, nên phải nấu sôi lên 100 độ C trong vòng 5 phút mới có thể tiêu diệt được chúng. Khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn viêm gan C có khuynh hướng tàn phá và tiêu hủy gan của chúng ta một cách tương đối chậm chạp nhưng chắc chắn, đưa tới viêm gan (inflammation, hepatitis), xơ gan (liver fibrosis), chai gan (liver cirrhosis) và ung thư gan (liver cancer).
Trong lúc tăng trưởng, chúng có khả năng thay đổi đặc tính di truyền RNA của mình, hóa trang và biến dạng thành nhiều “hình thù” khác nhau. Khả năng biến hóa này đã giúp chúng thoát khỏi vòng kiểm soát chặt chẽ của hệ thống miễn nhiễm (immune system). Vì thế, sau một thời gian ngắn, cơ thể chúng ta, có thể chứa đựng hàng tỷ vi khuẩn viêm gan C với nhiều mã di truyền khác nhau, với những chiếc “áo giáp” khác nhau.
Sự biến đổi chất nhiễm thể trong hơn 2000 năm qua, đã tạo ra nhiều kiểu gene khác nhau (genotypes) với những tên như vi khuẩn viêm gan C số 1, vi khuẩn viêm gan C số 2, vi khuẩn viêm gan C số 3, v.v. Trong mỗi genotype này, người ta còn phân chia thành những tiểu loại (subtypes) a, b, c, d, e, v.v., dựa theo một số đặc tính chính yếu khác nhau. Vì thế vi khuẩn viêm gan C được phân loại thành viêm gan C 1a, 1b, 1c, 2a, 2b, 2c, 2d, 3a, 3b, 3c, 3d, 3f, 4a, 4b v.v. Khám phá này ban đầu chỉ dùng trong những cuộc khảo cứu, nhưng nay đã trở thành một lối thử máu vô cùng quan trọng trong quá trình chữa bệnh viêm gan C.
Trong các loại vi khuẩn viêm gan C, loại genotype số 1 chiếm tỷ lệ cao nhất trên thế giới nói chung và ở nước Mỹ nói riêng với 35% loại 1a và 35% loại 1b. Loại 1b cũng được tìm thấy nhiều nhất ở Âu châu, Nhật Bản cũng như Ðài Loan. Loại số 3 thường thấy ở Pakistan, Úc, Scotland. Loại số 4 ở Trung Ðông và Châu Phi cũng như South Africa. Loại số 6 tại Hồng Kông và Macau. Hơn 50% bệnh nhân Việt Nam đang được chữa trị bệnh viêm gan C trong phòng mạch của tôi thuộc loại 1a hoặc 1b. Phần còn lại thuộc loại số 6 hoặc số 7. Một số ít thuộc số 2/3. Nói một cách tổng quát, các loại genotypes đều nguy hiểm như nhau, nhưng vi khuẩn viêm gan C loại 2 và 3 dễ chữa nhất. Loại số 1, nhất là 1b khó chữa hơn cả.
CHÍCH NGỪA VIÊM GAN C?
Như trình bầy ở trên, với khả năng biến đổi đặc tính di truyền bằng cách thay thế những chất hóa học trên nhiễm thể của mình, vi khuẩn viêm gan C đã thoát khỏi “mạng lưới phòng thủ” của hệ thống miễn nhiễm. Ðây cũng là lý do chính, mà cho tới nay, người ta vẫn chưa tìm được thuốc chích ngừa cho bệnh viêm gan C.
AI CÓ THỂ BỊ VIÊM GAN C?
Vì đây là một bệnh truyền nhiễm (infectious disease), nên chúng ta ai ai cũng có thể bị. Bệnh có thể lây qua những trường hợp sau đây:
1) LÂY QUA MÁU:
Bệnh dễ lây nhất qua máu. Trước năm 1992, nhận máu (blood transfusion) là nguyên nhân chính đưa đến viêm gan C. Lúc bấy giờ y-khoa chưa có cách thử máu để truy tầm vi khuẩn viêm gan C, nên trong 200 đơn vị máu đã có ít nhất một túi máu không may bị ô nhiễm. Ngày nay, với các loại test chính xác và hiệu nghiệm, nhận máu trở nên an toàn hơn nhiều với tỷ lệ lây bệnh viêm gan C trong lúc nhận máu là 1 trên 100.000.
2) LÂY QUA DỤNG CỤ Y KHOA:
Vi khuẩn viêm gan C có thể xâm nhập vào cơ thể chúng ta qua kim chích, đồ cạo râu, lưỡi lam hoặc bàn chải đánh răng, xâm mình (tattoo), cạo gió (coin rubbing), lể (Skin Puncture), châm cứu (acupuncture) hoặc mổ xẻ với những dụng cụ y-khoa, kim chích không được khử trùng đúng cách.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn của những năm chiến tranh, cách thức khử trùng thô sơ của kim chích đã gây mưng mủ (abscess) một cách thường xuyên. Ngày nay với những phương pháp khử trùng tối tân hơn, lây bệnh qua các dụng cụ y khoa như trong lúc nhổ răng, châm cứu, mổ xẻ v.v. trở nên rất hiếm hoi, nếu không muốn nói là không còn nữa.3) LÂY TỪ MẸ:
Lây bệnh từ mẹ qua bé sơ sinh trong lúc sanh đẻ có thể xẩy ra, với tỷ lệ trên dưới 5%. Sanh đẻ tự nhiên (vaginal delivery) hay giải phẫu lấy con (C-section) đều có tỷ lệ lây bệnh tương đương như nhau. Bệnh dễ lây hơn nếu chỉ số máu của người mẹ có hơn 2 đến 3 triệu siêu vi C trong mỗi một cc. Bệnh không lây qua sữa mẹ, nên không phải kiêng cữ trong việc cho con bú.
4) LÂY QUA ÐƯỜNG SINH LÝ:
Tuy bệnh viêm gan C có thể lây trong lúc giao hợp với người có bệnh, điều này hiếm khi xẩy ra, với tỷ lệ chưa đến 5%. Vì thế, cơ quan CDC cho rằng những vợ chồng chung thủy hoặc tình nhân gắn bó (monogamous patients) không cần kiêng cữ hoặc thay đổi đời sống tình dục. Những người “đào hoa” hơn với nhiều nhân tình khác nhau nên đeo bao cao su (condom) để tránh lây bệnh viêm gan C, cũng như các loại bệnh khác như hoa mai, giang liễu, AIDS, viêm gan B, v.v.
Ngoài ra, một số bệnh nhân tự nhiên bị lây bệnh mà không biết nguyên nhân từ đâu. Trong số này có khoảng 10% bệnh nhân viêm gan C cấp tính và 30% viêm gan C kinh niên. Người ta cho rằng trong những trường hợp này, bệnh nhân đã tiếp xúc với vi khuẩn viêm gan C trong lúc té ngã, trầy trụa hoặc đứt tay chân mà không hề hay biết. Tuy một số vi khuẩn viêm gan C được tìm thấy trong mồ hôi và nước bọt, ăn uống chung hoặc va chạm thể xác trong đời sống hằng ngày với bệnh nhân viêm gan C, không lấy gì là nguy hiểm.
TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN C:
Cũng như viêm gan A và B, bệnh nhân viêm gan C thường không có bất cứ một triệu chứng nào. Người ta chia ra làm 2 trường hợp: viêm gan cấp tính (acute) và viêm gan kinh niên (chronic).
1) VIÊM GAN C CẤP TÍNH (Acute Hepatitis):
Thông thường từ 7 đến 8 tuần sau khi bị lây bệnh, khoảng 30% bệnh nhân viêm gan C bỗng dưng cảm thấy hơi khó chịu như những cơn cảm cúm sơ sài. Bệnh không tấn công gan một cách dữ dội, nên gần như sẽ không ai thiệt mạng một cách “bất đắc kỳ tử” vì căn bệnh này. Một số bệnh nhân có thể bị nhức đầu, mệt mỏi, đau nhức khớp xương và bắp thịt. Nhiều khi họ cũng cảm thấy buồn nôn, khó chịu, đau bụng, tiêu chảy, ăn kém ngon, xuống ký. Ðôi khi bị sốt hoặc nổi ngứa. Khoảng 30% bệnh nhân viêm gan C da và mắt trở nên vàng (jaundice). Các triệu chứng này thường kéo dài từ 6 đến 8 tuần và từ từ thuyên giảm, rồi hoàn toàn biến mất sau một thời gian ngắn. Bấy giờ, bệnh có thể sẽ nằm vào giai đoạn a) “ngủ yên”, không hoạt động (dormant, less active), hoặc b) tiếp tục tăng trưởng (chronic active).
Cho tới nay, người ta vẫn chưa rõ, nguyên nhân và điều kiện nào sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến số phận của bệnh nhân viêm gan C. Nghĩa là ai sẽ được may mắn nằm trong trường hợp “ngủ yên” và ai sẽ tiếp tục bị bệnh viêm gan tàn phá cơ thể của mình. Nhưng một điều chắc chắn là khoảng 80 đến 90% bệnh nhân một khi bị lây bệnh viêm gan C mặc dầu sống rất khỏe mạnh, sẽ từ từ đi vào giai đoạn nguy hiểm hơn: viêm gan C kinh niên.
2) VIÊM GAN C KINH NIÊN (Chronic Active Hepatitis):
a) Triệu Chứng Sơ Khởi:
Mặc dầu gan mỗi ngày một yếu đi, đa số bệnh nhân trong thời gian này vẫn chưa có bất cứ một triệu chứng nào đáng kể. Chỉ khoảng 6% bệnh nhân viêm gan C mới có một vài triệu chứng tiêu biểu. Nhưng những triệu chứng này cũng rất mơ hồ và rất nhẹ, nên thường không được để ý tới. Triệu chứng thường xuyên nhất là mệt mỏi, thường vào xế chiều. Khả năng tập trung tư tưởng có thể giảm dần một cách tương đối nhanh chóng.Một ít người cảm thấy đau lâm râm, nhoi nhói phần bụng trên dưới xương sườn bên phải hoặc buồn nôn, khó chịu, da nổi ngứa, đau khớp xương và bắp thịt. Nếu không được khám phá và chữa trị kịp thời, bệnh mỗi ngày một nặng hơn. Gan mỗi ngày một viêm hơn, đưa đến xơ gan, rồi chai gan.
b) Hậu Quả Lâu Dài:Thông thường, sau một thời gian trung bình là 20 năm, gan bắt đầu bị xơ và từ từ biến qua chai. Trong một số trường hợp hiếm hoi hơn, thời gian chuyển hóa từ viêm đến chai có thể kéo dài hơn 50 năm. Tốc độ chai gan của mỗi cá nhân, vì thế, còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau. Quan trọng nhất là trạng thái sưng đỏ của tế bào gan, khi bệnh mới được khám phá. Khi xác nghiệm tế bào dưới kính hiển vi, người ta có thể ước đoán được thời gian cần thiết để tế bào gan sẽ đi từ viêm sang chai.
c) Yếu Tố và Ðiều Kiện Bất Lợi:Nhiều dữ kiện khác nhau có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiến triển của bệnh viêm gan C. Vì thế bệnh có thể phát triển nhanh chóng hơn dự tính gấp nhiều lần. Những người bị viêm gan C sau khi nhận máu nhiễm khuẩn, sẽ bị chai gan nhanh hơn (thường từ 8 đến 14 năm sau khi bị lây bệnh). Có lẽ trong lúc nhận máu, cơ thể đã bị tấn công và xâm lấn một cách ồ ạt bởi hàng tỷ vi khuẩn vi viêm gan C cùng một lúc, nên gan bị viêm nặng hơn.
Rượu bia, nếu uống quá nhiều sẽ gây tổn thương tế bào gan, và gan sẽ bị chai nhanh hơn. Người viêm gan C kinh niên mà uống quá nhiều rượu bia, không khác gì như “châm dầu vào lửa”.
Một số thuốc khác nhau cũng có thể làm cho lá gan bị chai nhanh hơn. Vì thế, người viêm gan C nên rất thận trọng khi uống bất cứ một loại thuốc nào, ngay cả các loại thuốc cỏ cây bày bán trên thị trường mà không cần toa bác sĩ.Gan cũng sẽ bị hư nhanh chóng hơn nếu cùng một lúc bệnh nhân bị nhiễm trùng bởi nhiều loại vi khuẩn viêm gan khác nhau. Ðây là trường hợp khi bệnh nhân bị cùng một lúc nhiều loại bệnh nhiễm trùng khác nhau như viêm gan B, viêm gan C, viêm gan D hoặc bệnh HIV-AIDS.
May mắn thay, không phải ai bị viêm gan C cũng sẽ bị chai gan. Và trên lý thuyết chỉ khoảng 5% bệnh nhân viêm gan C mới bị thiệt mạng bởi căn bệnh này. Tuy thế, với 2% tổng số dân chúng toàn cầu, viêm gan C đã trở thành một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất trong thế kỷ 21. Riêng tại Mỹ, sẽ có khoảng 8 đến 10 ngàn người thiệt mạng mỗi năm.
BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN C:
Ngoài đặc tính cơ bản của bệnh truyền nhiễm (infectious disease), bệnh viêm gan C có thể gây ra một số triệu chứng điển hình của những bệnh liên quan đến hệ thống miễn nhiễm (auto-immune diseases). Cơ thể người bị viêm gan C có thể tích trữ một số chất đạm (protein) và kháng thể khác nhau nhiều hơn bình thường. Khi những chất hóa học này thể trở nên quá thặng dư, chúng sẽ gây ra một số bệnh tật như đau nhức khớp xương, mệt mỏi/yếu đuối, nổi mề đay, suy thận cũng như lymphoma. Một số bệnh về nội tiết (endocrinology) cũng có thể bị ảnh hưởng một cách trực tiếp với bệnh viêm gan C. Trong đó có các bệnh của tuyến giáp trạng (thyroid diseases), bệnh tiểu đường (diabetes mellitus), bệnh Sjogren (gây ra khô miệng, khô môi v.v.).
CÁCH ÐỊNH BỆNH & CHỮA BỆNH VIÊM GAN C
Phương thức định bệnh và chữa bệnh viêm gan C tiến bộ nhanh chóng và thay đổi không ngừng. Từ một căn bệnh mà chỉ vài năm trước đây, người ta vẫn thường lắc đầu, bó tay và xem như là không thuốc chữa, bệnh viêm gan C ngày nay có thể được chữa trị một cách tương đối dễ dàng. Với ứng dụng của thuốc PEG-Interferon, đa số bệnh nhân viêm gan C, ngày nay, có thể hoàn toàn hết bệnh trong một thời gian lâu dài. Ðiều này, một lần nữa nói lên sự quan trọng trong việc truy tầm bệnh viêm gan C trong cộng đồng người Việt chúng ta, tại hải ngoại cũng như quốc nội.
Cho đến nay, thử máu định kỳ hằng năm vẫn là phương pháp thường xuyên nhất trong việc khám phá bệnh viêm gan C. Khi thử máu tổng quát, phân hóa tố ALT có thể tăng lên cao, cho biết gan có thể bị viêm. Và từ đó người y sĩ sẽ tiếp tục tìm kiếm thêm những nguyên nhân đưa đến bệnh viêm gan. Sau đây là những thí nghiệm căn bản mà quý vị sẽ gặp trong lúc được chữa trị bệnh viêm gan C:
1) THỬ MÁU:
a) Phân hóa tố ALT:
Ðây là một chất hóa học tìm thấy khắp nơi trong cơ thể. Nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau có thể làm chất ALT tăng cao một cách bất bình thường. Trong đó viêm gan (hepatitis) là nguyên nhân chính. Tôi vẫn thường so sánh phân hóa tố này như là khói bốc lên từ một căn nhà đang bị cháy; mà “nhà” là lá gan của chúng ta. Nếu khói (chất ALT) bốc lên ngùn ngụt, nhà đang cháy to, gan bị viêm nặng. Nếu khói chỉ lưa thưa, , nhà không cháy lớn, gan viêm sơ sơ. Tiếc thay, điều này không giản dị như vậy. Mặc dầu “không có lửa, sao có khói?”, đôi khi khói không phải từ căn nhà đang bị cháy, mà bốc lên từ các “bếp than”, “lò củi”. Ðó là trường hợp của gan KHÔNG bị viêm, mà chất ALT lại rất cao. Hơn nữa, nếu “nhà” không có khói, đâu có nghĩa là nhà không bị cháy. Có thể lứa đang âm ỉ bên trong nên chưa bộc phát ra ngoài. Hoặc nhà nay đã rụi thành tro, nên không còn gì để cháy (Ðó là trường hợp khi gan đã chai mà chất ALT hoàn toàn không thay đổi). Người ta nhận thấy, khoảng 30% những bệnh nhân viêm gan C, tuy năng chất của gan (ALT/AST) không hề tăng cao, gan của họ vẫn bị viêm kinh niên nếu được thử nghiệm dưới kính hiển vi. Vì thế, ngày nay một số trường phái có khuynh hướng sinh thiết lá gan cho tất cả bệnh nhân đã và đang mắc bệnh viêm gan C (nghĩa là khi thử máu HCV-antibody trở nên dương tính), bất chấp kết quả cao hay thấp của chất ALT/AST.
b) BILIRUBIN:
Ðây là chất cặn bã từ những hồng huyết cầu già nua bị phế thải trong chu kỳ tuần hoàn của máu. Chất mật vàng này, thông thường được biến chế bởi các tế bào gan trước khi theo phân và nước tiểu ra ngoài (Mầu vàng của phân và nước tiểu là do chất bilirubin gây nên). Trong một số bệnh liên quan đến gan, chất bilirubin này tăng cao. Khi cao hơn 3.5 đến 4 mg/dl, da và mắt có thể bị vàng (jaundice).
c) HCV-AB
Viết tắt từ chữ Hepatitis C Virus-Antibody. Nếu kết quả thử máu này dương tính, nghĩa là chúng ta đang bị bệnh viêm gan C. Chất kháng thể này được chế tạo từ những bạch huyết cầu của hệ thống miễn nhiễm, nhưng không đủ khả năng tiêu diệt vi khuẩn viêm gan C.
d) QUANTITATIVE HCV-RNA
Ðây là một test máu quan trọng, để theo dõi sự tiến triển của bệnh trong lúc đang được điều trị. Với một phương pháp đặc biệt, người ta sẽ đếm tổng số vi khuẩn viêm gan C trong một cc máu trước và trong khi chữa bệnh. Thuốc được xem là không hiệu lực, nếu số lượng không thuyên giảm sau 3 tháng chữa bệnh.
e) GENOTYPES
Thời gian trị liệu bệnh viêm gan C sẽ tùy thuộc vào kết quả của cuộc thử máu này. Nếu genotype là loại số 1, bệnh nhân cần chữa khoảng một năm. Nếu là loại số 2 hoặc 3, chỉ cần chữa 6 tháng mà thôi. Những loại khác có thể chữa từ 6 đến 12 tháng, tùy theo từng trường hợp.
f) ALFA-FETO-PROTEIN
Ðây là một chất đạm có thể tăng cao trong trường hợp khi gan biến thành ung thư. Nhưng trong một số điều kiện hoặc bệnh tật khác nhau, chất hóa học này cũng có thể cao hơn bình thường. Người bị viêm gan kinh niên vì bất cứ một lý do nào, cần phải theo dõi chất hóa học này một cách thường xuyên.
g) TIỂU CẦU (thrombocytes)
Hay còn được gọi là platelets, là những mảnh/khúc nhỏ từ tế bào “mẹ” megakaryocyte nằm trong tủy xương. Khi bị chảy máu, các tiểu cầu này sẽ bài tiết ra một số chất hóa học cần thiết trong việc đông đặc máu. Người bị chai gan thường có ít tiểu cầu hơn người thường.
h) PT/aPTT
Viết tắt từ chữ Prothrombin Time và activated Partial ThromboplastinTime. Hai loại test này đo thời gian cần thiết để máu đông đặc lại. Khi năng chức của gan giảm dần, thời gian cô đọng máu trở nên dài hơn, và bệnh nhân dễ bị chảy máu hơn.
2) SIÊU ÂM GAN (Ultrasonography hoặc Ultrasound Study):
Phương pháp này cho ta một khái niệm về hình thù và kích thước của gan. Nếu gan bị chai, gan có thể sẽ nhỏ hơn bình thường. Mặt ngoài của gan có thể bị lồi lõm. Phương pháp thử nghiệm này cũng có thể nhận diện được một số bệnh tật khác, như bướu hoặc ung thư (tumor), sạn trong túi mật (gallstone), gan đóng mỡ (fatty liver). Với ứng dụng của Doppler, sự di chuyển của máu qua lá gan cũng có thể được nhận diện một cách khác chính xác. Ngoài ra, siêu âm bụng cũng là một phương pháp rất tốt, để xem bệnh nhân có bị cổ trướng (ascites) hay không.
Siêu âm gan có thể nhận diện được hình thù của lá gan, nhưng không cho biết là gan có bị viêm hay không.
3) SINH THIẾT (Liver biopsy):
Ðể thử nghiệm dưới kính hiển vi, tế bào gan sẽ được lấy ra bằng một kim rất nhỏ, đâm giữa xương sườn vào thẳng lá gan. Một ít thuốc tê sẽ được dùng trong phương pháp này nên bệnh nhân chỉ cảm thấy hơi thôn thốn, khó chịu chứ không đau đớn cho lắm. Ðể giảm thiểu những biến chứng không may (complications), chỗ kim chích sẽ được hướng dẫn bằng máy siêu âm.
Sinh thiết làm rất nhanh, chưa đầy mười phút từ lúc siêu âm, tiêm thuốc tê đến lúc sinh thiết. Sau đó, bệnh nhân sẽ được quan sát tại nhà thương trong vòng 6 đến 8 tiếng trước khi về nhà nghỉ ngơi. Ðây là một phương pháp tương đối an toàn. Một vài biến chứng như chảy máu, lủng phổi, ruột v.v. có thể xẩy ra, nhưng thường hiếm hoi, và có thể chữa trị được. Thí nghiệm này tuy tốn kém nhưng có thể mang lại cho người y sĩ nhiều dữ kiện quan trọng trong việc định bệnh và chữa bệnh viêm gan.
Sau đây là bản tường trình về diễn tiến chai gan dựa vào quan sát mô học (histology) của khảo nghiệm tế bào gan:
Nguy cơ bị chai gan (%) | |||
Kết quả sinh thiết | Sau 5 năm | Sau 10 năm | Sau 20 năm |
Hơi bị viêm (mild) | 7% | 7% | 7% |
Viêm khá nặng (moderate) | 25% | 44% | 95% |
Viêm nặng (severe) | 68% | 100% | 100% |
Sơ Gan (bridging fibrosis) | 58% | 100% | 100% |
Nếu dựa theo bản thống kê kể trên, một người bệnh với kết quả khảo nghiệm gan là viêm khá nặng sẽ có nguy cơ bị chai gan là 25% sau 5 năm, 44% sau 10 năm và 95% sau 20 năm. Nếu người đó mới 30 tuổi khi được khám phá ra bệnh, bệnh nhân đó chắc chắn sẽ bị chai gan trước 50 tuổi. Mặt khác, 60 đến 70% bệnh nhân viêm gan nặng hoặc bị sơ gan sẽ bị chai gan trong vòng 5 năm. Ðiều này cho thấy sự quan trọng trong việc truy tầm vàợ khám phá ra bệnh trong những giai đoạn đầu tiên.
THUỐC CHỮA BỆNH VIÊM GAN C:
Vào năm 1986, nghĩa là trước khi vi khuẩn viêm gan C được khám phá, người ta đã tìm thấy ứng dụng của một loại thuốc trong việc chữa trị bệnh viêm gan, mà bấy giờ vẫn được gọi là “non-A, non-B”. Ðó là Interferon, một trong nhiều loại thuốc được dùng để chữa một số bệnh nhiễm trùng và ung thư.
INTERFERON LÀ GÌ?
Interferon là một trong những chất hóa học quan trọng trong hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Khi bị cảm cúm hoặc nhiễm trùng chất hóa học này sẽ được chế tạo nhiều hơn từ các bạch huyết cầu và luân chuyển khắp nơi trong cơ thể. Nhờ vào chất Interferon này, hệ thống miễn nhiễm sẽ nhận diện các vi khuẩn hoặc vi trùng “bất hợp pháp” một cách nhanh chóng và tiêu diệt chúng một cách dễ dàng. Tuy nhiên, như viết ở trên, với khả năng trá hình tài tình, vi khuẩn viêm gan C có thể công khai tàn phá cơ thể chúng ta mà hệ thống miễn nhiễm vẫn tiếp tục “ngủ quên”. Chích Interferon vào cơ thể người đang bị bệnh, vì thế không khác hơn là tiếp tế “súng đạn” cho một “nước đang bị giặc xâm lăng”.
Cho tới nay nhiều loại Interferon khác nhau như Interferon alfa-2b (Intron-của hãng Schering), Interferon alfacon-I (Infergen của hãng Amgen) và Interferon alfa-2a (Roferol của hãng Roche) đã được dùng trong việc chữa trị bệnh viêm gan C. Khi dùng thuốc này, bệnh nhân tự chích một ít thuốc vào dưới da (subcutaneous injection) bằng một kim rất nhỏ (giống như kim chích cho người bị tiểu đường), một tuần 3 lần. Thường chích vào buổi tối trước khi đi ngủ. Nếu ứng dụng đúng cách tất cả các loại thuốc này đều đạt được một thành quả tương tự như nhau. Tiếc thay, nếu dùng đơn phương (monotherapy), các loại thuốc này chỉ có khả năng chữa hết bệnh cho khoảng 15 đến 35% tổng số bệnh nhân được chữa. Và trong một số lớn bệnh nhân bệnh lại tái phát sau một thời gian nghỉ thuốc. Ðiều này đã mang lại nhiều thất vọng cho cả bác sĩ lẫn bệnh nhân.
Trong những năm vừa qua, nhờ vào những khám phá và kinh nghiệm rút tỉa từ phương thức trị liệu bệnh HIV/AIDS, lối chữa bệnh viêm gan C trở nên tinh vi hơn. Với khuynh hướng pha trộn nhiều loại thuốc khác nhau (combination therapy), tỷ lệ lành bệnh tăng nhanh. Một thí dụ điển hình là lối chữa bệnh viêm gan C cùng một lúc với 2 loại thuốc: Interferon và ribavarin.
RIBAVARIN LÀ GÌ?
Ribavarin là một loại thuốc viên, được bán trên nước Mỹ dưới nhãn hiệu là Rebetol, của hãng Schering và Copegus, của hãng Roche. Thuốc thuộc gia đình Guanosin, đã và đang được dùng như thuốc bơm vào phổi (inhalant) cho trẻ em mắc bệnh phổi do syncytial virút gây ra. Chất hóa học của thuốc này có hình dáng tương tự như những đơn vị của nhiễm thể RNA. Người ta tin rằng chất ribavirin, nếu uống đúng dose có thể ngăn cản sự tăng trưởng của các vi khuẩn. Tuy nhiên, thuốc này nếu dùng một mình sẽ không đủ sức để tiêu diệt vi khuẩn viêm gan C.
Nhưng khi dùng chung với thuốc chích interferon (Combination Therapy), thuốc này mang lại một kết quả chữa bệnh không ngờ. Trong phương pháp này vi khuẩn viêm gan C sẽ bị tấn công trên nhiều “mặt trận” khác nhau. Trong lúc interferon tăng cường hệ thống miễn nhiễm và ngăn cản vi khuẩn viêm gan tấn công các tế bào chưa bị hư, chất ribavarin sẽ ngăn cản không cho các vi khuẩn đã có trong cơ thể tiếp tục tăng trưởng.
Gần đây nhất, người ta lại khám phá thêm một loại interferon mới, tốt hơn với tên là pegylated interferon. Thuốc này có nhiều lợi điểm so với các loại interferon cũ. Với bán thời (half life) dài hơn, thuốc chỉ cần chích mỗi tuần một lần, thay vì tuần 3 lần so với thuốc Intron-A. Hai tên thuốc điển hình đang được dùng tại Hoa Kỳ là PegIntron (Peginterferon alpha-2b) & Pegasys (Peginterferon alpha-2a).
Công hiệu của thuốc này cũng khả quan hơn nhiều, với xác xuất hoàn toàn hết bệnh (cure rate) lên đến 88% cho bệnh nhân viêm gan C loại số 2 và 3, nếu chích chung với thuốc uống ribavarin trong vòng 6 tháng. Và khoảng 50% bệnh nhân viêm gan C loại “cứng đầu” khó chữa như loại số 1a/1b, sẽ hoàn toàn hết bệnh trong một thời gian lâu dài, nếu được chữa trong vòng một năm. Sau khi chữa xong, bệnh có thể tái phát với tỷ lệ 0.8% sau một năm, và 1.8% sau 2 năm. Nếu sau 4 năm mà bệnh không hề tái phát, nghĩa là chất ALT trong máu vẫn hoàn toàn bình thường cũng như tổng lượng vi khuẩn viêm gan C vẫn không tìm thấy (Undetectable Quantitative HCV-RNA), bệnh được xem là hoàn toàn hết.
NHỮNG ÐIỀU NÊN BIẾT KHI CHỮA TRỊ VỚI THUỐC RIBAVARIN.
a) Thuốc chỉ dùng cho bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên mà thôi. Không dùng cho trẻ em. Vì thuốc có nhiều phản ứng phụ, một số bác sĩ khuyên bệnh nhân lớn hơn 65 tuổi không nên chích thuốc này. Bệnh nhân phải có khả năng tự chích lấy hoặc liên lạc với bác sĩ của mình trong trường hợp bị quá nhiều phản ứng phụ của thuốc.
b) Vì thuốc ribavarin có thể gây ra quái thai, thai nghén trong thời gian chữa trị phải được ngăn ngừa một cách tuyệt đối. Nếu một trong hai vợ chồng uống thuốc ribavarin, cả vợ lẫn chồng đều phải dùng phương pháp ngừa thai (double protection). Vợ uống thuốc ngừa thai. Chồng dùng bao cao su. Ðây là để tránh hậu quả vô cùng tai hại có thể xẩy ra, nếu không phòng ngừa cẩn thận. Nếu muốn có con, quý vị phải chờ ít nhất 6 tháng sau khi chữa xong bệnh.
Người vợ ở lứa tuổi có thể có con (bệnh nhân hay phu thê của bệnh nhân) phải được thử thai (pregnancy test) hằng tháng. Nếu chẳng may, quý vị hoặc người vợ của mình có thai trong lúc chữa trị, xin quý vị liên lạc GẤP với bác sĩ của mình.
c) Những kim chích sau khi đã dùng xong, phải được cất giữ cẩn thận trong những hộp đựng kim đặc biệt, để tránh tình trạng lây bệnh cho người khác. Thường các phòng thử nghiệm máu có thể giúp quý vị tiêu hủy những hộp đựng kim này theo tiêu chuẩn ấn định bởi bộ y tế. Các loại thuốc chích phải được tích trữ trong tủ lạnh.
Nếu đi du lịch, quý vị nên đựng thuốc trong hộp nhựa và đá khô để thuốc không bị hư. Hộp này được cung cấp miễn phí bởi hãng thuốc.
LÀM THẾ NÀO ÐỂ BỚT PHẢN ỨNG PHỤ?
Interferon có thể gây ra nhiều phản ứng phụ khác nhau. Chúng có thể rất khó chịu trong vài tuần lễ đầu, nhưng sẽ giảm dần, một khi cơ thể bắt đầu quen thuốc. Một số người may mắn không gặp bất cứ một trở ngại nào đáng kể trong khi chích thuốc. Nhưng ngược lại, trong một số bệnh nhân, các phản ứng phụ có thể nặng đến nỗi tưởng như không chịu được và phải bỏ cuộc không tiếp tục điều trị nữa. Trong trường hợp này, xin quý vị đương nản lòng và mất kiên nhẫn. Hy vọng những đề nghị sau đây có thể giúp quý vị đối phó với các phản ứng phụ:
1) Interferon có những phản ứng phụ tương tự như những cơn cảm cúm. Bệnh nhân thường cảm thấy hâm hấp nóng, mệt mỏi, đau nhức mình mẩy cũng như tay chân, sau khi chích thuốc. Người mệt mỏi, rét lạnh. Miệng khô đắng, khó chịu hoặc cảm thấy buồn nôn. Thức ăn trở nên vô vị. Ăn kém đi, bệnh nhân có thể mất ký. Tóc có thể mỏng dần hoặc thưa thớt. Triệu chứng kể trên thường nặng nhất trong 2 tuần lễ đầu, nên quý vị có thể xin nghỉ việc trong thời gian khó khăn này. Ðây là thử thách đầu tiên và cũng là quyết liệt nhất. May mắn thay, các triệu chứng sẽ từ từ giảm dần, nếu tiếp tục chích. Ðể tránh rụng tóc, quý vị có thể dùng các loại thuốc gội đầu hiệu Nioxin.
2) Các triệu chứng kể trên thường bắt đầu xuất hiện từ 4 đến 6 tiếng sau khi chích. Vì thế, quý vị nên chích trước khi đi ngủ. Khi ngủ say chúng ta sẽ không cảm thấy mệt mỏi. Uống từ một đến hai viên Advil 400 mg (ibuprofen) hoặc 2 viên Tylenol (acetaminophen 500mg) trước hoặc sau khi chích sẽ giúp cơ thể dễ chịu hơn. Không nên uống thuốc Tylenol quá liều, nhất là nếu uống chung với rượu hoặc bia. Gan có thể bị hủy hoại một cách nhanh chóng.
3) Nên chích thuốc pegylated Interferon vào tối thứ Sáu. Như thế, phản ứng phụ nếu có sẽ nhiều nhất vào những ngày cuối tuần, không phải đi làm việc.
Nên uống thật nhiều nước. Nên cữ cà-phê và rượu. Khi quá mệt, nên nghỉ ngơi thường xuyên. Khi buồn nôn, nên ăn thành nhiều bữa, tránh dầu mỡ. Nên ăn nhiều rau luộc và trái cây ngọt, cũng như những thức ăn lặt vặt để tránh tình trạng mất ký. Khi miệng khô hoặc đắng chát, nên đánh răng nhiều lần, hoặc xúc miệng thường xuyên. Một số bệnh nhân bị lở miệng và lưỡi trong khi chích thuốc, họ có thể xúc miệng bằng waterperoxide H2O2 pha chung với nước ấm (pha nửa nước, nửa thuốc).
5) Tập thể dục nhẹ. Ban đầu nên tập những động tác làm giãn gân, giãn cốt vào mỗi sáng và buổi chiều trước bữa ăn tối. Tập thể dục thường xuyên không những làm cơ thể chúng ta được thoải mái, mà còn có thể giảm đi sự đau đớn khớp xương và bắp thịt do thuốc gây ra.Tập thể dục theo lối Tai-Chi, tập gậy dưỡng sinh của cụ Mai Bắc Ðẩu, hay một số phương pháp luyện khí công v.v. cũng có thể giúp cơ thể chúng ta vượt qua những phản ứng phụ của thuốc một cách tương đối dễ dàng hơn.
6) Interferon cũng có thể thay đổi tính tình hoặc gây ảnh hưởng trực tiếp đến tâm thần của bệnh nhân. Người bệnh có thể trở nên bực bội, cáu kỉnh, dễ nổi nóng, mất tự chủ. Tập trung tư tưởng trở nên khó khăn. Nguy hiểm nhất là buồn phiền, chán đời, không muốn sống và nhiều khi có ý định tự tử. Trong lúc chữa trị, quý vị, vì thế nên chia sẻ những đổi thay kỳ lạ của cơ thể mình với người thân trong gia đình. Nhất là, khi quý vị cảm thấy khác thường, không kiểm soát được đầu óc của mình, buồn bực một cách quá đáng với ý định tự tử, quý vị hãy liên lạc ngay với bác sĩ của mình, càng sớm càng tốt, dù ngày hay đêm. (Nhưng nếu chỉ bị mất ngủ một chút như trong trường hợp của cô T. kể trên, quý vị có thể chờ đến sáng hôm sau cũng được.)7) Khi nhức đầu, có thể dùng những phương pháp khác nhau để relax. Nghe nhạc êm diệu, đừng quá chói tai. Tránh xem TV quá lâu. Massage nhè nhẹ hai bên thái dương và cổ. 8) Ngoài ra, interferon có thể thuyên giảm nhiệm vụ của tủy xương gây ra thiếu máu. Thiếu hồng huyết cầu (red blood cell) người dễ mệt. Thiếu bạch cầu (white blood cell) cơ thể dễ bị nhiễm trùng. Và thiếu tiểu cầu (platelet cell) cơ thể dễ bị chảy máu. Vì thế trong khi chữa trị, quý vị sẽ phải đi thử máu rất nhiều lần, gần như mỗi tháng một lần.
9) Một trong những biến chứng nguy hiểm nhất của thuốc Interferon là nhồi máu cơ tim (heart attack). Trường hợp này có thể xẩy ra cho bất cứ một ai trong lúc chích thuốc. Tuy nhiên những người sau đây sẽ có nguy cơ bị đau tim nhiều hơn: a) người đang bị cao áp huyết, b) người đang bị tiểu đường, c) người có chất Cholesterol quá cao, d) người hút thuốc lá, e) người quá lớn tuổi (thường hơn 65 tuổi trở lên). Vì thế, nếu trong lúc chữa trị, quý vị phải gọi ngay số 911, nếu bỗng dưng bị đau tim, tức ngực, khó thở.
10) Hiện nay trên nước Mỹ, nhiều nhóm hỗ trợ (support groups) được thành lập để bệnh nhân có dịp chia sẻ kinh nghiệm bản thân cho nhau, cũng như giúp đỡ lẫn nhau trong lúc chữa trị. Xin quý vị liên lạc với bác sĩ của mình về những địa chỉ cũng như số phone liên lạc của những nhóm gần nơi quý vị đang cư ngụ.
ZADAXIN (Thymosin Alpha 1):
Ðây là một loại thuốc mới đang được ứng dụng trong việc chữa trị bệnh viêm B và C. Cũng như Interferon thuốc này là một trong những hóa chất mà cơ thể chúng ta tự chế tạo để kích thích và tăng cường hệ thống miễn nhiễm. Người ta nhận thấy, nếu thuốc này được chích dưới da 2 lần một tuần, những “cảm tử quân” trong hệ thống miễn nhiễm như T-cell helper, Cytotoxic T-cell, Natural Killer cell sẽ tăng nhanh và sẽ tấn công những tế bào gan đã bị nhiễm trùng một cách đắc lực hơn. Thuốc được xem là an toàn và rất ít phản ứng phụ. Hy vọng thuốc này sẽ được FDA chấp thuận trong một thời gian rất gần đây.
Tế bào gan bị nhiễm trùng đang bị hủy hoại bởi hệ thống miễn nhiễm, dưới sự điều khiển của Thymosin Alpha 1 (Zadaxin)
Trong một số ít bệnh nhân, trong lúc đang được chữa trị bằng thuốc Interferon, phân tố hóa ALT tăng cao trở lại. Người ta cho rằng thuốc chích nay đã bị mất hiệu lực vì vi khuẩn viêm gan C lại một lần nữa thay hình đổi dạng. Với một số mã di truyền mới khác lạ, những vi khuẩn viêm gan C này không còn bị tiêu hủy bởi thuốc interferon nữa. Mặt khác, người ta cũng tin rằng, trong đa số những trường hợp kém may mắn này, thuốc Rebetron có thể đã hoàn toàn không có một chút hiệu lực ngay từ đầu, và sự bình thường hóa của chất ALT chỉ là một tình cờ ngẫu nhiên mà thôi. Sau đó, vì gan vẫn tiếp tục bị viêm, chất ALT sẽ không sớm thì muộn tăng cao trở lại.
Ngoài ra người ta cũng cho rằng, trong một số trường hợp hiếm hoi hơn, cơ thể bệnh nhân có thể hóa giải thuốc Interferon với những kháng thể khác nhau. (Ðây là một lỗi lầm khác của hệ thống miễn nhiễm trong việc chống trả sự tấn công của vi khuẩn viêm gan C. Thay vì đi giết quân thù, thì chúng lại cho quân đi đánh “bạn đồng minh”. Những bệnh nhân này thường được xem là
“chưa có thuốc chữa” và cần theo dõi một cách kỹ lưỡng. Một số trung tâm Ðại Học có những phương thức chữa bệnh khác nhau với các loại thuốc đang trong vòng nghiên cứu cho những trường hợp tương tự.
Tóm lại, viêm gan C là một căn bệnh dễ lây qua máu, nhưng không lây qua thức ăn, mồ hôi và nước bọt. Người bệnh vẫn có thể tiếp tục ăn uống, sống chung chạ
trong gia đình, mà không sợ lây bệnh cho người thân thương. Tùy theo từng loại vi khuẩn, thời gian chữa bệnh có thể kéo dài từ 6 tháng đến một năm. Với những thuốc mới hơn, kết quả chữa bệnh trở nên khả quan hơn với ít phản ứng phụ hơn.
Hy vọng trong một tương lai gần đây, nhiều loại thuốc tốt hơn nữa với ít phản ứng phụ hơn sẽ được dùng để chữa căn bệnh đáng ngại này. Nhiều nghiên cứu về thuốc mới với khả năng hủy hoại những phân hóa tố (enzymes) quan trọng của vi khuẩn viêm gan C đang được thực hiện khắp nơi trên thế giới. Với những loại thuốc này, chúng ta sẽ mở thêm nhiều “mặt trận” mới trong việc diệt vi khuẩn viêm gan C.
Ngoài ra quý vị cũng có thể liên lạc hoặc tìm hiểu thêm về bệnh viêm gan C qua các số phone hoặc những địa chỉ trên mạng lưới điện toán toàn cầu sau đây:
1) Hepatitis C Support Group (Hoa Kỳ) (949) 654-42502) Hepatitis Foundation International (1-800-891-0707); www.HepFl.org
3) American Liver Foundation (Hoa Kỳ) (1-800-223-0179);www.Liverfoundation.org4) Centers for Disease Control and Prevention, Hepatitis Branch (1-888-443-7232) (Hoa Kỳ); www.cdc.gov/ncidod/diseases/hepatitis/index.htm5) Hội Ung Thư Việt Mỹ – (Vietnamese American Cancer Foundation)www.UngThu.org (714) 751-5805 (Hoa Kỳ)
BỆNH VIÊM GAN D
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
- Ðây là vi khuẩn không toàn vẹn, nên phải sống nhờ vào vi khuẩn viêm gan B. Cũng còn được gọi là vi khuẩn Delta.
-
Bệnh lây qua máu và vấn đề sinh lý, tương tự như bệnh viêm gan B. Bệnh không lây qua thức ăn, nước uống.
-
Bệnh chỉ lây qua cho những ai chưa có kháng thể chống lại vi khuẩn viêm gan B mà thôi. Nếu quý vị đã được miễn nhiễm bệnh viêm gan B, quý vị sẽ không bị lây bệnh viêm gan D nữa.
-
Tùy theo thời điểm lây bệnh và mối tương quan với vi khuẩn viêm gan B, bệnh có thể trở nên rất nguy hiểm, và bệnh nhân có thể lìa trần trong một thời gian ngắn.
-
Cho tới nay, vi khuẩn viêm gan D được xem là một trong những vi khuẩn viêm gan nguy hiểm nhất, với khả năng tàn phá lá gan rất nhanh chóng.
AI CÓ THỂ BỊ VIÊM GAN D?
Hiện nay trên thế giới có khoảng 5% bệnh nhân viêm gan B kinh niên, nghĩa là khoảng 15 triệu người, đang bị cả viêm gan B lẫn viêm gan D. Tuy bệnh viêm gan D giảm dần nhờ vào những cuộc chích ngừa bệnh viêm gan B hữu hiệu và quy mô trong mọi từng lớp xã hội, tỷ lệ viêm gan D vẫn còn tương đối cao, từ 1.4% đến 8.0% tùy theo từng địa danh. Vì bệnh lây qua máu, nên từ 20% đến 53% những người chích cần sa, ma túy (nhất là khi dùng chung kim của nhau); và từ 48% đến 80% những người bệnh huyết hữu (hemophiliacs) đã và đang bị bệnh viêm gan B & D. Mỗi năm trên nước Mỹ, sẽ có khoảng 7,500 người bị lây bệnh này. Trong cộng đồng người Việt chúng ta, có khoảng 1.25 % người đang bị viêm gan B & D.
CÁCH THỨC LÂY BỆNH
Một lần nữa, tương tự như viêm gan B, bệnh viêm gan D rất dễ lây khi chăn gối với người có bệnh. Vì thế xin đừng quên “mặc áo giáp”, “đeo áo mưa”.
TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN D
VIÊM GAN D CẤP TÍNH
Bệnh nhân có thể cùng một lúc lây cả hai bệnh viêm gan B và D (coinfection), hoặc lây bệnh viêm gan B trước rồi ít lâu sau bị thêm bệnh viêm gan D (superinfection). Trong cả 2 trường hợp này, nếu có sự “tiếp sức” của vi khuẩn viêm gan D, tế bào gan của bệnh nhân viêm gan B sẽ bị tàn phá nhanh chóng hơn, nhất là trong trường hợp thứ hai.
Ðồng nhiễm (Coinfection):
Bệnh viêm gan D thường gây ra những triệu chứng tương tự như bệnh viêm gan B. Vì cùng một lúc, cơ thể bị tấn công bởi 2 loại vi khuẩn viêm gan khác nhau, những triệu chứng có thể trầm trọng hơn, và bệnh có thể lâu dài hơn. Vì thế, bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan B & D sẽ có một số triệu chứng điển hình của bệnh viêm gan B trước, rồi sau đó, khi bệnh có vẻ như đang thuyên giảm, những triệu chứng như vàng da, nhức đầu, buồn nôn, chóng mặt v.v. bắt đầu trở lại. Cơ thể tuy chưa hoàn toàn hồi sức, đã bị thêm một đợt tấn công thứ 2; lần này do vi khuẩn viêm gan D gây ra. Tùy theo tuổi tác khi bị lây bệnh, những triệu chứng kể trên có thể rất rõ rệt hoặc mơ hồ. Như đã trình bầy trong bài “Bệnh Viêm Gan B”, bệnh nhân càng trẻ tuổi chừng nào, những triệu chứng của bệnh càng ít chừng đó, và ngược lại.
Nói một cách khác, khi một người lớn bị lây bệnh viêm gan B và D, người này sẽ thường có nhiều triệu chứng hơn là các bé trẻ thơ. Tiếc thay, càng trẻ tuổi chừng nào, nguy cơ của bệnh biến thành kinh niên sẽ càng cao chừng nấy. Ðó là lý do mà đa số các bé sơ sinh khi bị lây bệnh trong lúc ấu thơ, sẽ bị viêm gan kinh niên với tất cả những biến chứng nguy hiểm sau này. Tuy triệu chứng có vẻ nặng hơn trong thời gian đầu khi mới vừa bị lây bệnh, cơ thể của bệnh nhân lớn tuổi hơn, với một hệ thống miễn nhiễm toàn vẹn hơn, sẽ có khả năng tiêu diệt cả 2 loại vi khuẩn kể trên một cách dễ dàng hơn. Ðiều này, một lần nữa nói lên tầm vóc quan trọng trong vấn đề truy tầm bệnh viêm gan B (và D) ở những phụ nữ trong thời kỳ thai nghén, cũng như việc chích ngừa bệnh viêm gan B cho tất cả mọi người, nhất là các bé sơ sinh.Bội nhiễm (Superinfection):
Ðây là trường hợp rất nguy hiểm, khi bệnh nhân đang bị viêm gan B, bị lây thêm một bệnh viêm gan thứ hai. Với sự bành trướng của vi khuẩn viêm gan D trong một cơ thể đang bị nhiễm trùng bởi vi khuẩn viêm gan B, bệnh sẽ trở nên rất trầm trọng với những hậu quả vô cùng tai hại trong một thời gian rất ngắn. Ngay cả trong trường hợp khi vi khuẩn viêm gan B đang “ngủ yên”, không tàn phá lá gan (healthy carriers), sự tiếp sức của vi khuẩn viêm gan D sẽ tàn phá tế bào gan một cách rất nhanh chóng (trong một thời gian từ 3 đến 5 năm). Vì thế, tuy là một loại vi khuẩn “không toàn vẹn”, vi khuẩn viêm gan D có thể “đánh thức” vi khuẩn viêm gan B đang “ngủ say”, và “hợp lực” tàn phá lá gan của bệnh nhân một cách “vũ bão”.
Khi bệnh lần đầu tiên được khám phá vào những năm 1970, người ta cho rằng vi khuẩn viêm gan D có thể tàn phá gan một cách rất nhanh chóng, khiến đa số bệnh nhân sẽ lìa trần trong vòng một thời gian ngắn từ một vài tháng đến một vài năm. Tuy nhiên, theo sự quan sát gần đây, sự tiến triển của bệnh thay đổi một cách khác nhau tùy vào từng cá nhân. Khoảng 15% bệnh nhân bội nhiễm vi khuẩn viêm gan D sẽ phát bệnh một cách cực kỳ nhanh chóng, và gan của họ sẽ bị chai trong vòng 12 tháng. Khoảng 15% bệnh nhân khác may mắn hơn sẽ hoàn toàn hết bệnh. Trong 70% bệnh nhân còn lại, tuy khả năng tàn phá và thay đổi kiến trúc của lá gan có thể xẩy ra rất nhanh chóng đưa đến chai gan trong vòng một vài năm, bệnh có thể chỉ “dậm chân tại chỗ” trong vòng 20 đến 30 năm, trước khi “quyết định” ra tay “hạ sát địch thủ”. Nếu so với bệnh nhân viêm gan B và C, bệnh nhân viêm gan D sẽ bị chai gan sớm hơn (khoảng 10 đến 20 năm sớm hơn). Khoảng 40% bệnh nhân chai gan gây ra bởi vi khuẩn viêm gan D sẽ bị ung thư gan trong vòng 12 năm. Thông thường những người viêm gan D vì lây qua đường chích thuốc phiện sẽ bị chai gan nhanh chóng hơn những bệnh nhân viêm gan D vì lây qua một lý do nào khác.
ÐỊNH BỆNH VIÊM GAN D
1) THỬ MÁU:
2) SIÊU ÂM:
PHÒNG NGỪA BỆNH VIÊM GAN D
PHƯƠNG PHÁP CHỮA TRỊ
1) VIÊM GAN D CẤP TÍNH:
Khi bệnh trở nên ác tính, bệnh nhân bắt đầu có những triệu chứng của loạn trí như mất dần tự chủ, chóng quên, ăn nói “lung tung”. Nặng hơn nữa, họ sẽ bị hôn mê, bất tỉnh v.v. Khi máu trở nên quá loãng, họ có thể bị chảy máu cam, ói ra máu, đi cầu phân đen như mực, da dễ bị bầm tím. Trong trường hợp này, bệnh nhân phải được đưa vào những trung tâm đại học ngay lập tức. Gan có thể bị tàn phá một cách rất nhanh chóng và nếu không được ghép gan, bệnh nhân có thể lìa trần.
2) VIÊM GAN D KINH NIÊN:
Hy vọng trong một tương lai gần đây, nhiều thuốc mới hơn, tốt hơn với ít phản ứng phụ hơn sẽ được khám phá và ứng dụng trong việc chữa trị căn bệnh đáng ngại này.
BỆNH VIÊM GAN E
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
- Vi khuẩn viêm gan E là nguyên nhân thường xuyên nhất gây ra dịch vàng da tại những vùng nhiệt đới.
- Bệnh lây qua thức ăn và nước uống ô nhiễm bởi vi khuẩn viêm gan E. Bệnh hiếm khi lây qua máu.
- Ða số bệnh nhân viêm gan E sẽ không có bất cứ một triệu chứng nào đáng kể, nhưng trong một số bệnh nhân kém may mắn, bệnh có thể trở nên ác tính.
- Một khi bệnh trở nên ác tính, bệnh nhân có thể lìa trần một cách dễ dàng.
- Bệnh trở nên nguy hiểm cho những phụ nữ đang có thai.
- Cho tới nay vẫn chưa có thuốc chích ngừa cho bệnh viêm gan E.
AI CÓ THỂ BỊ BỆNH VIÊM GAN E?
TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN E
CÁCH ÐỊNH BỆNH VIÊM GAN E
PHÒNG BỆNH VIÊM GAN E
Tại một số thôn quê Việt Nam, nhà vệ sinh và phòng tắm cũng như nguồn nước uống “hòa đồng” với nhau một cách rất “thiên nhiên”. Vì thế cả hai bệnh viêm gan A và viêm gan E cũng như một số bệnh sán lải vẫn tiếp lan tràn khắp nơi. Khi du lịch về những vùng nhiệt đới, quý vị chỉ nên uống nước đóng trong chai hoặc lon để lạnh. Tránh uống với đá lạnh làm từ những vòi nước chưa được khử trùng. Tránh ăn các loại sò hến, tôm cua không được nấu kỹ, các loại rau sống cũng như trái cây không bóc vỏ. Thông thường, quý vị chỉ cần đun sôi thức ăn, nước uống trong vòng một phút là có thể tiêu hủy vi khuẩn viêm gan E một cách dễ dàng. Hy vọng trong một tương lai gần đây, người ta sẽ khám phá ra thuốc chích ngừa viêm gan E.
CÁCH THỨC CHỮA TRỊ
CHAI GAN
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
-
Khi gan bị viêm kinh niên vì bất cứ một lý do nào, gan sẽ bị xơ theo thời gian.
-
Xơ gan là tình trạng khi cơ cấu của gan bắt đầu bị thay đổi bởi những tế bào xơ chạy ngang dọc, xen kẽ giữa những tế bào gan. Nếu được chữa trị trong gia đoạn này, gan có thể bình phục hoàn toàn (bệnh “còn” thuốc chữa).
-
Viêm lâu năm, gan sẽ biến thành chai. Ðây là trạng thái khi bệnh “không còn thuốc chữa”. Gan càng ngày càng chai, gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm khác nhau.
-
Lối chữa trị duy nhất khi gan đã bị chai là ghép gan. Tuy nhiên một số thuốc men và phương pháp có thể giúp bệnh nhân chai gan sống một cách khỏe mạnh hơn.
XƠ GAN (liver fibrosis)
Tiếc thay, vì đa số bệnh nhân xơ gan không hề có bất cứ một triệu chứng nào rõ rệt, bệnh mỗi ngày một nặng hơn. Rồi thời gian trôi qua, cơ hội chữa lành bệnh nhạt dần theo năm tháng. Ðiều này, một lần nữa nói lên tính cách quan trọng của việc khám định kỳ và thử máu thường xuyên.
CHAI GAN (liver cirrhosis)
Chai gan, vì thế được xem là kết quả cuối cùng khi phản ứng của gan với chấn thương đã kéo dài quá lâu và nay bệnh đã đến thời kỳ “không còn thuốc chữa” (irreversible process). Ðây là trường hợp khi những mô xơ trở nên “chằng chịt” hơn, biến những mô liên kết (connective tissues) thành những “sẹo” lớn chạy ngang dọc, chia lá gan thành những kết tiết nhỏ (nodules). Những kết tiết này là tập hợp của những tế bào gan còn sống sót, hoặc mới được tái sinh. Một khi gan đã bị chai, bệnh sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách liên tục và không ngừng. Bệnh mỗi ngày một nặng hơn. Gan mỗi ngày một chai hơn.
Tùy theo vị trí của mô xơ và mô sẹo, chai gan sẽ đưa đến những hậu quả và biến chứng khác nhau. Mỗi một hậu quả sẽ đưa đến một số triệu chứng điển hình khác nhau.
TRIỆU CHỨNG CỦA CHAI GAN
Những triệu chứng thông thường nhất của chai gan, nếu có, thường rất mơ hồ với những cơn mệt mỏi không nguyên cớ rõ rệt. Bệnh nhân có thể bần thần, khó chịu, không tha thiết làm bất cứ việc gì. Người trở nên yếu đuối, chán ăn, mất ký. Tay chân có thể mất cảm giác. Lưỡi bị nóng rát. Bụng có thể đau “ê ẩm” ở chấn thủy hoặc phần bụng trên bên phải. Một số người da bắt đầu mất đi vẻ hồng hào. Mặt có thể bị xám đen. Nhiều mạch máu li ti như những màng nhện (spider angiomata) có thể tìm thấy trên khắp cơ thể, nhất là trên ngực và sau lưng. Khi nước bắt đầu ứ đọng lại trong cơ thể, bệnh trở nên nguy ngập hơn. Bệnh nhân có thể lìa trần một cách nhanh chóng và dễ dàng.
Vì gan đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo tồn sức khỏe, bệnh chai gan sẽ gây tổn thương cho nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể. Sau đây là một số triệu chứng điển hình của nhiều cơ quan và hệ thống khác nhau, khi gan bị chai:
HỆ THỐNG | TRIỆU CHỨNG |
Tiêu Hóa | 1. Xuất huyết đường ruột: đi cầu phân đen, ói ra máu 2. Loét lở bao tử, ruột non và ruột gìa. 3. Ðau bụng, ăn kém ngon, buồn nôn, ói mửa. Thức ăn không được hấp thụ và tiêu hóa một cách dễ dàng như xưa, đưa đến thiếu dinh dưỡng, ốm còi, xuống ký nhanh chóng. 4. Cổ trướng (ascites). |
Thần Kinh | 1. Gan thanh lọc và loại trừ chất độc và các chất cặn bã. Khi gan bị chai, chất độc tăng dần trong máu. Tế bào óc bị tê liệt gây ra những triệu chứng như bần thần, buồn phiền, chán nản, mất ngủ, chóng quên, không tập trung tư tưởng, dễ cáu kỉnh, thay đổi tính tình. 2. Mất định hướng, mất tự chủ, ăn nói lung tung, khó hiểu, chân tay run lẩy bẩy. Khi nặng hơn, bệnh nhân trở nên lờ đờ, buồn ngủ, loạn trí, rồi bất tỉnh và chết (hepatic encephalopathy). |
Máu | 1. Máu trở nên loãng, không đông đặc dễ dàng như xưa. Ðiều này dễ làm bệnh nhân xuất huyết bao tử hơn. 2. Lá lách sưng lớn, dễ vỡ. |
Thận | 1. Thận giữ muối và nước nhiều hơn bình thường nên người bị sưng phù. Nước ứ đọng khắp nơi trong cơ thể. 2. Thận mỗi ngày một yếu, khi hoàn toàn hư, bệnh nhân phải lọc thận (hepatorenal syndrome). |
Nội Tiết | 1. Giảm năng tuyến sinh dục (hypogonadism): Chất steroid giảm dần gây ra rỗng xương (osteoporosis), hiếm muộn. Nam bệnh nhân trở nên bất lực, chân tay yếu đuối, bắp thịt teo nhỏ lại, vú nở lớn như phụ nữ (gynecomastia). Nữ bệnh nhân thường kinh nguyệt trở nên thất thường. 2. Tuyến giáp trạng (thyroid): Gan là cơ quan chính trong việc chuyển hóa các kích thích tố (hormone) của tuyến giáp trạng. Bệnh nhân chai gan có thể bị giảm năng tuyến giáp (hypothyroidism) hoặc tăng năng tuyến giáp (hyperthyroidism). Vì thế bệnh nhân có thể bắt đầu bằng triệu chứng của bệnh tuyến giáp trạng làm việc thái quá rồi từ từ chuyển sang triệu chứng của người với tuyến giáp trạng không hoạt động đúng cách, và ngược lại. 3. Tụy tạng (pancreas): 60% bệnh nhân chai gan sẽ không dung nạp được chất đường (glucose intolerance) và hơn 20% sẽ bị tiểu đường (diabetes). Vì thế bệnh tiểu đường của người viêm gan trở nên nặng hơn, một khi gan bị chai. |
Phổi | 1. Hơi thở có mùi “ngọt lờ lợ của trái cây”, đôi khi giống như mùi rượu lên men. 2. Nước có thể ứ đọng trong xoang phế mạc (pleural effusion) gây ra ngộp thở. Hơn nữa, các mạch máu trong phổi cũng có thể bị thay đổi làm sự trao đổi dưỡng khí trở nên khó khăn. Bệnh nhân trở nên khó thở. Áp xuất máu của phổi tăng dần đưa đến lớn tim. |
Người ta cho rằng, những triệu chứng khi gan bị chai thường gây ra bởi 2 lý do chính: 1) áp xuất mạch môn quá cao và 2) tế bào gan đã bị tổn thương quá nặng, không còn hoạt động một cách đắc lực. Với sự suy luận này, lối chữa trị bệnh chai gan đã thay đổi nhiều trong những năm vừa qua.
1) TĂNG ÁP XUẤT MẠCH MÔN (portal hypertension):
a) TĨNH MẠCH TRƯỚNG (Varices):
Khi bị viêm lâu năm, các mạch máu của gan bị những mô xơ “ép nhỏ” lại. Sự lưu thông của máu qua những tĩnh mạch này trở nên ngày một khó khăn hơn. Áp xuất mạch môn dần dần tăng cao. Máu, vì thế, sẽ bị ứ đọng lại tại nhiều cơ quan khác nhau.Những mạch máu tô đậm có thể nở lớn ra khi gan bị chai. Chúng sẽ biến thành những tĩnh mạch trướng.Lúc bấy giờ cơ thể sẽ tìm cách chuyên chở máu về tim qua những “đường vòng” khác. Những đường vòng này là những mạch máu đã được tạo hình trong thời kỳ phôi thai (embryonic channels), khi hệ thống tiêu hóa của thai nhi chưa tích cực hoạt động. Vì những mạch máu “phụ” này có bán kính nhỏ hơn tĩnh mạch cửa rất nhiều, nên chẳng bao lâu chúng sẽ không “chịu nổi” số lượng máu quá mạnh và quá nhiều. Có lẽ đây là hậu quả nguy hiểm nhất khi áp xuất mạch môn bị tăng quá cao.
Khi phải chuyên chở một số lượng máu quá nhiều từ bụng về tim, những mạch máu nhỏ kể trên sẽ giãn to và dễ vỡ. Chúng được gọi là tĩnh mạch trướng (varices). Quang trọng nhất là mạch trướng thực quản (esophageal varices), mạch trướng bao tử (gastric varices) và mạch trướng hậu môn (rectal varices). Người ta ước đoán, mỗi năm khoảng 5 đến 8 % bệnh nhân bị chai gan sẽ bị tĩnh mạch trướng thực quản. Như những “quả bom nổ chậm”, những mạch trướng này có thể vỡ tung và chảy máu bất cứ lúc nào.
Hơn nữa, vì sự tuần hoàn nuôi dưỡng hệ thống tiêu hóa bị ứ đọng và tắt nghẽn, màng bao tử và ruột già có thể bị viêm đỏ, loét lở và chảy máu. Vì vậy, không sớm thì muộn bệnh nhân chai gan sẽ bị xuất huyết bao tử. Họ có thể đang sống một cách rất “bình thường”, bỗng dưng cảm thấy khó chịu, bụng đau “tưng tức” rồi ói ra máu hoặc đi cầu phân đen như mực. Trong những trường hợp này, bệnh nhân cần phải nhập viện ngay lập tức.
b) CỔ TRƯỚNG (Ascites):
Ðây là một trong những biến chứng thường xuyên nhất của chai gan, và chai gan là nguyên nhân số một đưa đến cổ trướng. Trong trường hợp này một số dung dịch bị ứ đọng và tích tụ trong xoang phúc mạc, làm bụng trở nên căng phồng. Hơn 30% bệnh nhân chai gan, nhất là chai gan từ vi khuẩn viêm gan C, sẽ bị cổ trướng trong vòng 10 năm. Ban đầu bệnh nhân có cảm tưởng như mình đang “phát tướng”, với bụng “mập” hơn một chút. Sau đó quần áo mỗi ngày một chật hơn. Rồi bụng có thể lớn rất nhanh và rất lớn như người đang mang thai. Nước cũng có thể ứ đọng ở hai chân. Song song vào đó, bệnh nhân còn cảm thấy ngày một mệt mỏi hơn, họ bỗng trở nên “lười biếng”, không tha thiết đến bất cứ việc gì, ngay cả những vấn đề chính yếu như ăn uống. Lâu dần họ sẽ mất ký và trở nên thiếu dinh dưỡng một cách trầm trọng. Khi bụng bị quá căng, bệnh nhân cảm thấy nặng nề, đau đớn, khó thở.
Với số nước “lõng bõng” trong xoang phúc mạc, ruột non có thể “bơi” và di chuyển một cách tự do, nên có thể đưa đến sa ruột (hernia) hoặc nguy hiểm hơn bị tắt nghẽn ruột (hernial incarceration). Khi ruột bị nghẽn, bụng bỗng dưng đau “khủng khiếp” và nếu không được chữa trị đúng cách và kịp thời, phần ruột bị xoắn có thể bị thối và làm độc. Bệnh nhân có thể lìa trần một cách dễ dàng.
Một trong những biến chứng khác khi nước bị ứ đọng trong bụng là nhiễm trùng phúc mạc (bacterial peritonitis). Ðây cũng là một dữ kiện có thể nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân, nếu không được khám phá kịp thời. Vì thế sự hiện diện của xưng cổ trướng nơi bệnh nhân đang bị xuất huyết bao tử là một điểm không tốt. Nhiễm trùng phúc mạc thường gây tổn thương lan qua những hệ thống khác, như thận, phổi, tim v.v. (multiorgan failure).
Rút nước từ bụng bệnh nhân xưng cổ trướng (paracentesis) là một lối trị bệnh đã được ứng dụng từ đầu thế kỷ thứ 18. Trong phương pháp này, một ống cao su nhỏ sẽ được đưa thẳng vào bụng để rút nước ra và gởi đi phòng thí nghiệm. Cách thức thực hiện rất đơn giản với một ít thuốc tê để tiêm vào da và một vài ống chích đặc biệt để hút nước. Ðể giảm thiểu những biến chứng hiếm hoi như chảy máu và lủng ruột, vị trí hút nước thường được ấn định trước bằng máy siêu âm (ultrasound). Thông thường sau khi rút nước ra, bệnh nhân cảm thấy rất dễ chịu và có thể thở lại một cách dễ dàng. Bụng không còn đau “tưng tức” nữa. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có tính cách tạm thời mà thôi. Sau khi rút nước ra, bụng sẽ sưng trướng trở lại một cách nhanh chóng. Vì thế, người bị chai gan nên tránh ăn quá nhiều muối và uống quá nhiều nước. Vì khuôn khổ sách giới hạn, nên chúng tôi không đi vào chi tiết hơn trong việc chữa trị cổ trướng.Ngoài xuất huyết từ những mạch trướng và những biến chứng gây ra từ cổ trướng, bệnh nhân chai gan có thể bị “hành hạ” bởi những hậu quả khi khả năng hoạt động của gan hoàn toàn bị tê liệt.
2) TẾ BÀO GAN BỊ HƯ
Sự bào chế của nhiều chất hóa học và chất đạm giảm dần. Nước ứ đọng khắp nơi trong cơ thể. Người dễ bị cảm cúm, bệnh tật hơn. Thiếu chất mật (bile), sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn, nhất là các chất dầu mỡ trở nên khó khăn hơn. Người bệnh, vì thế cảm thấy rất mệt mỏi, khó chịu sau mỗi bữa ăn. Họ trở nên “lười” ăn hơn. Ban đầu, họ chỉ tránh những thực phẩm nhiều dầu mỡ, lâu dần họ trở nên “sợ sệt” trước mỗi bữa ăn.
Người chai gan không sớm thì muộn sẽ bị thiếu dinh dưỡng một cách trầm trọng. Cơ thể, không còn khả năng hấp thụ những thức ăn mỗi ngày một ít đi. Các loại vitamines tan trong mỡ như Vitamin A, D, E, K, v.v. bị thiếu một cách kinh niên. Thiếu Vitamin K, máu trở nên loãng hơn, và bệnh nhân dễ bị chảy máu hơn.
Vì gan là cơ quan chính để “giải độc” trong cơ thể, “rác rưới” sẽ bị ứ đọng khắp nơi gây “ngộp thở” cho tất cả các tế bào. Người bệnh trở nên kém minh mẫn. Trí nhớ giảm dần. Cơ thể và hơi thở trở nên nặng mùi. Chất mật vàng (bilirubin) tăng dần. Da và mắt trở nên vàng, mặt nám đen v.v. Bệnh nhân, như thế mỗi ngày một yếu đi.
Tóm lại, chai gan là giai đoạn cuối cùng khi gan đã bị viêm quá lâu năm. Người bị chai gan trong những giai đoạn đầu tiên thường không có một triệu chứng nào đáng kể. Nhưng một khi bộc phát, bệnh trở nên trầm trọng một cách nhanh chóng, “kéo theo” tất cả những hệ thống khác trong cơ thể chúng ta. Tuy một số thuốc men có thể dùng trong việc chữa trị cho người bị chai gan, bệnh nhân sẽ đi dần đến cái chết một cách tương đối lẹ làng nếu không được ghép gan. Tiếc thay, ghép gan là một phương pháp chữa bệnh rất tốn kém, và người cho thì ít, kẻ nhận thì nhiều. Do đó, không phải ai cũng có may mắn được nhận gan của người khác một cách kịp thời. Vì thế, đa số bệnh nhân trong danh sách chờ đợi để được ghép gan (waiting list), phải chờ đợi rất lâu. Ðôi khi quá lâu và quá muộn.
DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỊ VIÊM GAN
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
-
Dinh dưỡng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo trì sức khỏe của chúng ta.
-
Người bị bệnh viêm gan cần một dinh dưỡng đặc biệt tùy theo bệnh trạng của mỗi cá nhân.
-
Nhiều loại thuốc có thể hại đến tế bào gan, nên người bị viêm gan cần tham khảo ý kiến bác sĩ gia đình của mình trước khi dùng bất cứ một loại thuốc nào.
-
Dược thảo tuy an toàn, nhưng trong một số trường hợp, thuốc có thể gây ra những điều kiện bất lợi và nguy hại cho người dùng.
-
Khi gan bắt đầu bị chai, một số thức ăn nước uống thông dụng hàng ngày có thể trở thành những độc tố tác hại trực tiếp đến lá gan.
Thông thường, khi cơ thể chúng ta còn khỏe mạnh, chưa bệnh tật, ăn uống một cách “bừa bãi”, “cẩu thả” cũng chỉ gây ra một số hậu quả không tốt nếu chúng ta tiếp tục “vung vít” “phá giới” từ ngày này qua tháng nọ. Tuy nhiên, vấn đề dinh dưỡng trở nên vô cùng quan trọng khi gan của chúng ta bị viêm, không còn tốt như xưa.
Dinh dưỡng cho người bệnh viêm gan được phân biệt tùy theo bệnh trạng của mỗi cá nhân:
1) Người bị viêm gan cấp tính (acute hepatitis)
2) Người bị viêm gan kinh niên (chronic hepatitis) và
3) Người bị chai gan (liver cirrhosis) hoặc ung thư gan (liver cancer).
Mục tiêu chính của dinh dưỡng là:
- Giữ cán cân trung bình. Ðừng ăn ít hơn hoặc nhiều hơn sự cần thiết của cơ thể. Người mập quá, nên xuống ký. Người ốm quá nên lên cân.
- Cung cấp cho cơ thể chúng ta những chất bổ và khoáng chất cần thiết.
Tuy một gram chất mỡ chứa nhiều nhiên liệu hơn một gram chất đường, chất bột hoặc chất đạm, chúng ta nên dùng chất mỡ/ béo càng ít càng tốt. Tổng số năng lượng mỗi ngày không nên nhiều hơn 30% dưới dạng mỡ.
Sau đây là bản so sánh giữa các nhiên liệu chứa đựng trong các loại thịt thông thường:
90 Grams | Chất Ðạm (Proteins) | Năng Lượng (Calories) |
Mỡ (Fat) |
Mỡ Bảo Hòa (Saturated Fat) | Choles-terol (mg) |
Thịt Bò | 21 g | 240 | 15 | 6.4 | 77 |
Thịt Cừu | 14 g | 205 | 20 | 8.8 | 63 |
Thịt Dê | 26 g | 136 | 2.8 | 1 | 66 |
Thịt Gà Tây | 25 g | 135 | 3 | 0.9 | 59 |
Thịt Gà | 20 g | 140 | 1 | 0.3 | 55 |
Thịt Heo | 14 g | 275 | 18.2 | 6.8 | 62 |
Thịt Nai | 26 g | 126 | 1.6 | 0.6 | 65 |
Thức Ăn | Khẩu Phần | Chất Sơ (grams) |
Bánh Mì Nâu (whole wheat) |
1 lát | 2.0 |
Bánh mì trắng | 1 lát | 0.9 |
Broccoli | 1 cốc (cup) | 6.5 |
Cam | 1 quả nhỏ | 3.0 |
Cà Rốt sống | 4 củ | 1.7 |
Chuối | 1 trái cỡ trung | 2.0 |
Cơm trắng | 1 bát nhỏ | 1.5 |
Dứa tươi | 3/4 cốc (cup) | 1.4 |
Ðậu Ðen / Ðậu Ðỏ | 1/2 cốc (cup) | 5.5 |
Ðậu Ðũa | 1 cốc (cup) | 4.2 |
Gạo Lức | 1/2 cốc (chưa nấu) | 5.5 |
Khoai Tây | 1 củ nhỏ | 4.2 |
Lê | 1 trái nhỏ | 3.0 |
Mận khô | 3 trái nhỏ | 1.7 |
Mận tươi | 2 trái nhỏ | 2.4 |
Măng tây | 1/2 cốc (cup) | 1.8 |
Nho tươi | 15 trái nhỏ | 0.5 |
Sà lách xanh | 1 cốc (cup) | 0.5 |
Táo | 1 trái nhỏ | 2.8 |
Xoài | 1 quả nhỏ | 6.0 |
- Ăn thành nhiều bữa, mỗi bữa một ít.
- Tránh những thức ăn quá nặng nề với nhiều gia vị, dầu mỡ.
- Uống nhiều nước. Nước ấm thường dễ uống hơn nước quá lạnh.
- Nên nghỉ ngơi thường xuyên và tránh làm việc quá nặng nhọc.
- Nên dùng những phương pháp “nhẹ nhàng” để thuyên giảm những triệu chứng khó chịu, trước khi dùng đến thuốc men.
- Nếu phải dùng thuốc, nên dùng càng ít càng tốt.
- Tuyệt đối không được uống rượu bia trong thời gian này, dầu chỉ một ít mà thôi.
- Nếu triệu chứng trở nên quá nặng, xin liên lạc với bác sĩ của quý vị càng sớm càng tốt.
Ngược lại, nếu chỉ hơi nôn nao khó chịu, bệnh có thể được chữa tại gia. Trong trường hợp này, họ chỉ nên dùng các thức ăn nhẹ, không dầu mỡ, ít gia vị. Thường nên ăn nhiều hơn vào buổi sáng, khi cơ thể còn tương đối khỏe mạnh. Vào xế chiều cơ thể bệnh nhân viêm gan cấp tính thường mệt mỏi hơn, nên dễ buồn nôn hơn. Ðể tránh bị đầy bụng, khó chịu buồn nôn sau mỗi bữa ăn, họ nên thi hành câu châm ngôn: “Ăn ít no lâu, ăn nhiều dễ ói”. Nghĩa là họ nên ăn thành nhiều bữa, mỗi lần một ít. Một số bác sĩ tin rằng, người bệnh viêm gan cấp tính nên ăn nhiều năng lượng (calories) hơn so với lúc chưa bị bệnh. Năng lượng này rất cần thiết trong việc hồi phục những tế bào gan nói riêng và toàn cơ thể nói chung.
Như đã trình bầy trong chương “Bệnh viêm gan A”, quý vị nên dùng phương pháp “đau đâu chữa đó”. Ðiều này có nghĩa là quý vị chỉ nên uống thuốc trong trường hợp thật cần thiết mà thôi. Tránh dùng quá liều các loại thuốc có thể hại đến gan, chẳng hạn như Tylenol (Acetaminophen). Tránh uống rượu và bia. May mắn thay, đa số triệu chứng của bệnh viêm gan cấp tính từ các loại vi khuẩn viêm gan, nếu có, chỉ kéo dài vài ngày tới vài tuần. Một khi gan bình phục bệnh nhân có thể ăn uống lại bình thường mà không phải kiêng cữ gì cả.
THỰC PHẨM CHO NGƯỜI VIÊM GAN KINH NIÊN
- Tiếp tục ăn uống một cách bình thường. Nên thay đổi nhiều loại thức ăn khác nhau.
- Kiêng dầu mỡ và các chất béo như mọi người khác (không bị viêm gan).
- Nên ăn nhiều rau và trái cây để có nhiều chất sinh tố và chất sợi.
- Nên uống thêm thuốc bổ, nhưng nên tránh thuốc có chứa nhiều chất sắt.
- Nên ăn nhiều chất đạm (protein), nhất là chất đạm từ thực vật.
- Tránh uống rượu hoặc bia.
RƯỢU BIA VÀ BỆNH GAN:
CHẤT SẮT VÀ BỆNH GAN:
MỠ VÀ BỆNH GAN:
Nói một cách tổng quát, muốn xuống ký, chúng ta phải ăn ít hơn số calories cần thiết. Tập thể dục là một cách thức tăng cao số năng lượng cơ thể tiêu thụ mỗi ngày. Tập thể dục còn giúp cho cơ thể chúng ta được cứng cáp và ít bệnh tật hơn. Tùy theo cách thức tập thể dục, cơ thể sẽ “đốt” một số năng lượng thặng dư. Sau đây là bản tóm tắt về thời gian tập thể dục cần thiết để tiêu hủy năng lượng tương đương của một số thức ăn thông dụng:
Như thế, dựa vào bản tóm tắt kể trên, nếu quý vị đi bộ khoảng nửa tiếng đồng hồ (và toát mồ hôi rất nhiều), rồi sau đó ăn một bánh cookie với một lon nước ngọt, quý vị đã “đổ đầy một bình xăng mới” và sẽ không xuống một ký lô nào cả.
Thời Gian Tập Thể Dục (phút) để tiêu thụ Thực Phẩm đã dùng | ||||||
Thức Ăn | Kilo-cal | Hoạt động cơ thể | ||||
Ði bộ | Ði xe đạp | Bơi lội | Chạy bộ | Nằm nghỉ | ||
1 thìa cottage cheese | 27 | 5 phút | 3 phút | 2 phút | 1 phút | 21 phút |
1 củ carrot sống | 42 | 5 phút | 4 phút | 4 phút | 2 phút | 32 phút |
1 bánh cookie | 51 | 10 phút | 6 phút | 5 phút | 3 phút | 39 phút |
1 quả cam | 68 | 13 phút | 8 phút | 6 phút | 4 phút | 52 phút |
1 ly sữa ít mỡ | 81 | 16 phút | 10 phút | 7 phút | 4 phút | 62 phút |
1 thìa mayonnaise | 92 | 18 phút | 11 phút | 8 phút | 5 phút | 71 phút |
2 lát bacon | 96 | 18 phút | 12 phút | 9 phút | 5 phút | 74 phút |
1 quả táo lớn | 100 | 19 phút | 12 phút | 9 phút | 5 phút | 78 phút |
1 lon nước ngọt | 106 | 20 phút | 13 phút | 9 phút | 5 phút | 82 phút |
1 trứng chiên | 110 | 21 phút | 13 phút | 10 p hút | 6 phút | 85 phút |
1 chai bia | 114 | 22 phút | 14 phút | 10 phút | 6 phút | 88 phút |
2 lát ham | 167 | 32 phút | 20 phút | 15 phút | 9 phút | 128 phút |
1 ly kem nhỏ | 193 | 37 phút | 24 phút | 17 phút | 10 phút | 148 phút |
1/2 ức gà chiên | 232 | 45 phút | 28 phút | 21 phút | 14 phút | 178 phút |
Tuna salad | 278 | 53 phút | 34 phút | 25 phút | 14 phút | 214 phút |
Hamburger | 350 | 67 phút | 43 phút | 31 phút | 18 phút | 269 phút |
1 ly Milk shake | 421 | 81 phút | 51 phút | 38 phút | 22 phút | 324 phút |
CHẤT ÐẠM VÀ BỆNH VIÊM GAN:
Chất đạm (protein) đóng một vai trò quan trọng và cần thiết trong việc bảo trì và tăng trưởng bắp thịt trong cơ thể chúng ta. Chất đạm cũng giúp cơ thể tự chữa bệnh và hồi sức. Người bị bệnh gan cần ăn uống đầy đủ chất đạm để giúp tế bào gan tăng trưởng và hồi phục mau chóng. Tùy theo tuổi tác, trọng lượng, nghề nghiệp cũng như sinh hoạt thể thao và phái tính nam nữ, bệnh nhân cần từ 1 đến 1.5 gm chất đạm mỗi ngày cho mỗi một ký lô trọng lượng cơ thể. Người ta thường hiểu lầm là bệnh nhân viêm gan phải tránh chất đạm, không được ăn quá nhiều thịt, nhất là lòng đỏ trứng gà. Ðiều này chỉ đúng khi gan bị chai quá nặng mà thôi.
Khi bệnh trở nên nặng hơn, khả năng bài tiết chất mật của gan giảm dần. Thiếu chất mật sự tiêu hóa và hấp thụ dầu mỡ trở nên khó khăn hơn. Bệnh nhân có thể bị sình bụng, khó chịu hoặc tiêu chảy. Các loại vitamin tan trong mỡ như vitamin A, D, E sẽ không được hấp thụ như mong muốn. Vì thế nếu không uống thêm Vitamin D (5,000 – 8,000 IU mỗi ngày) và calcium, xương của họ có thể sẽ xốp hơn và dễ gẫy hơn. Nên uống thêm Vitamin A từ 10,000 đến 25,000 IU mỗi ngày và Vitamin E từ 50 đến 400 IU mỗi ngày. Một số bác sĩ cũng khuyên nên uống thêm Vitamin C mỗi ngày. Nếu khả năng tiêu hóa dầu mỡ thuyên giảm trầm trọng hơn, bệnh nhân viêm gan B kinh niên có thể uống thêm một số thuốc như Kuzyme HP, Creon 20, v.v.
THỰC PHẨM CHO NGƯỜI BỊ CHAI & UNG THƯ GAN
Ðể tránh bệnh loạn trí gây từ chai gan (hepatic encephalopathy), bệnh nhân nên giảm thiểu chất đạm từ động vật như thịt, cá, trứng gà/vịt, sữa. Không nên dùng quá 0.8 gram chất đạm từ động vật cho mỗi ký lô trọng lượng mỗi ngày. Ammonia từ chất đạm của thịt nếu tăng quá cao sẽ làm bệnh nhân trở nên mệt mỏi, buồn ngủ, thiếu minh mẫn, kém tỉnh táo và nếu nặng hơn loạn trí, hôn mê bất tỉnh. Mặt khác người ta nhận thấy chất đạm từ thực vật như đậu nành, đậu hũ dễ ăn hơn và có thể tránh được những hậu quả của bệnh loạn trí. Vì thế, người bị chai gan, nên ăn rau quả nhiều hơn thịt. Họ có thể ăn từ 70 đến 80 gram chất đạm từ thực vật mỗi ngày. Ăn nhiều rau còn mang lại một lợi điểạm khác không kém quan trọng. Ðó là bớt bón. Khi bị bón, các độc tố, trong đó có chất ammonia chế tạo từ vi trùng trong ruột già một cách nhanh chóng hơn. Ngoài ra, người ta cũng nhận thấy rằng, nếu ăn nhiều chất sơ, bệnh tiểu đường cũng có thể suy giảm.
Thuốc Bổ cho Người bị Viêm Gan Kinh niên
|
Vitamin A: 10,000 đến 25,000 IU mỗi ngày
Vitamin D: 5,000 đến 8,000 IU mỗi ngày Vitamin E: 50 đến 400 IU mỗi ngày Vitamin C: 100 mg mỗi ngày Các chất khoáng: một viên multivitamin loại ngày một viên Calcium 1,000 đến 2,000 mg mỗi ngày |
Thuốc Bổ cho người bị Chai Gan
|
Thuốc bổ ở trên cộng thêm Vitamin K: từ 2.5 đến 5.0 mg mỗi ngày |
Người bị chai gan cần phải ăn thật nhiều chất sơ để tránh bị bón. Trung bình họ cần đi đại tiện ít nhất 2 đến 3 lần mỗi ngày. Một lần nữa điều này nhấn mạnh sự quan trọng của rau và trái cây trong việc trị bệnh nói chung và bệnh viêm gan nói riêng. Khi đi cầu nhiều lần trong ngày, phân thành hình trong ruột già sẽ bị “tống” ra ngoài một cách kịp thời, trước khi chúng bị lên men bởi vi trùng. Khi bị bón, các độc tố bài tiết từ các vi trùng có thể đi thẳng vào máu, làm tê liệt tế bào óc của người bị chai gan. Người ta cũng nhận thấy yogurt và sữa hoặc chất men Lactobacillus acidophilus nếu dùng đúng cách có thể hóa giải chất ammonia trong phân.
- Nếu thận hoạt động tốt và chưa bị phù thủng hoặc sưng cổ trướng, người bệnh nhân viêm gan nên uống thật nhiều nước, càng nhiều càng tốt. Nên tránh uống rượu bia hoặc các loại nước chứa đựng chất caffeine như coffee, trà đen, Coke, Mountain Dew v.v. Caffeine với đặc tính loại tiểu dễ làm cơ thể mất nước hơn. Tuy nhiên nếu quý vị đang uống thuốc lợi tiểu như Lasix, Aldactone v.v. xin quý vị tham khảo ý kiến bác sĩ.
- Nên chọn lựa thức ăn hợp với khẩu vị. Không nên cưỡng ép ăn uống những thực phẩm không hợp với cơ thể, như uống sữa Ensure để rồi sau đó bị lình sình bụng suốt ngày và không ăn uống được gì nữa.
- Ðể tránh nôn ói, hoặc để ăn ngon miệng hơn, nên ăn thành nhiều bữa trong ngày. Mỗi lần một ít. Nên ăn nhiều hơn vào buổi sáng. Một ít bánh nhạt, một tí nước ngọt có thể thuyên giảm những cảm giác nôn nao khó chịu hoặc lợm giọng buồn nôn.
- Vì người chai gan dễ bị viêm bao tử (gastritis), nên thức ăn quá mặn, quá cay, quá chua có thể làm họ đau bụng, khó tiêu sau mỗi bữa cơm. Nên tránh các loại thức ăn kể trên. Ngoài ra nên tránh thức ăn quá nhiều dầu mỡ hoặc quá nhiều gia vị. Mùi vị nồng nặc của một số thức ăn có thể giảm đi nếu để lạnh hoặc nguội trước khi dùng. Nên nấu thức ăn nơi thoáng khí, hoặc dùng máy hút hơi hữu hiệu, để giảm thiểu sự buồn nôn có thể gây ra từ khói cay hoặc hương vị khó chịu trong lúc nấu nướng. Hấp và luộc thức ăn cũng như nấu bằng microwave trong các túi nylon cột kín sẽ giảm đi phần lớn sự ngào ngạt nặng mùi trong lúc nấu nướng.
- Người chai gan có thể lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi. Tuy nhiên họ có thể sẽ khỏe hơn khi ăn “chay” một vài bữa với thật nhiều đậu nành, đậu hũ cũng như các loại trái cây không quá chua. Nếu đau bụng sau khi ăn hoặc khi bụng quá đói, xin liên lạc với bác sĩ của quý vị, vì đây có thể là triệu chứng của loét lở bao tử. Nếu thức ăn quá chua làm đau bụng, quý vị có thể uống thuốc Prelief kèm với thức ăn có nhiều chất chua.
- Khi bệnh nặng hơn, thức ăn chứa đựng nhiều dầu mỡ có thể trở nên khó tiêu. Một số thuốc men có thể giúp đỡ trong những trường hợp này.
THUỐC BỔ GAN
Trong thế kỷ vừa qua, song song với lối chữa trị chính thống Tây Y, khuynh hướng chữa bệnh theo những phương thức khác biệt (alternative medicine) tại Hoa Kỳ gia tăng một cách nhanh chóng. Phương thức này bao gồm tất cả những lối chữa trị không dựa theo lý thuyết truyền thống y khoa Tây phương. Thí dụ điển hình như châm cứu (acupuncture), bấm huyệt (acupressure), chỉnh xương (chiropractic medicine), đấm bóp (massage), yoga, dinh dưỡng trị liệu, tập dưỡng sinh, dược thảo (herbal medicine), trị liệu đồng căn (homeopathy, một hệ thống y khoa dựa trên lý thuyết “lấy độc trị độc”) v.v. Và như thế, vào năm 1997, công dân Mỹ đã chi khoảng 21.2 tỷ Mỹ Kim cho những phương pháp khác biệt này.
Thật ra, tất cả thức ăn và nước uống hằng ngày của chúng ta đều mang lại không ít thì nhiều một số hóa chất có đặc tính chữa bệnh. Những triệu chứng của bệnh cảm cúm chẳng hạn, có thể được thuyên giảm phần nào bằng một tô cháo hành nhiều tiêu hoặc một ly trà nóng với ít chanh và mật ong hoặc pha với quế v.v. Hơn nữa, mỗi một loại gia vị dùng trong việc nấu nướng có thể được xem như một loại dược thảo với đặc tính thuyên giảm một hay nhiều triệu chứng nào đó. Thí dụ điển hình như ngũ vị hương, bột cà ri, hồi, ngò, húng, quế, xả, ớt, hành, tỏi v.v. Và như thế, trong mỗi lần ăn uống, chúng ta sẽ cung cấp cho cơ thể một số nhiên liệu cũng như một số dược thảo.
Vì đây là một thức ăn rất “lành”, nên theo tôi nghĩ, quý vị vẫn có thể tiếp tục nấu lấy nước mà uống. Trái artichoke ăn ngon miệng, nên nếu không giúp được chữa bệnh, cũng mang lại cho chúng ta những giây phút thoải mái trong lúc thưởng thức món ăn tinh khiết này.
Một loại thuốc khác rất thịnh hành trong cộng đồng người Việt là Sulfarlem. Thuốc này có tên hóa học là anetholtrihione do viện bào chế Solvay Pharma sản xuất. Dựa theo tài liệu của hãng thuốc này, Sulfarlem là một loại thuốc có khả năng kích thích chức năng tiết chất mật của gan (biliary function stimulant) và được dùng trong việc điều trị những triệu chứng liên quan đến rối loạn tiêu hóa (digestive problems) và trong trường hợp khô miệng vì tuyến nước bọt không bài tiết đầy đủ. Tuy họ không hề đề cập đến khả năng chữa trị bệnh viêm gan, rất nhiều bệnh nhân vẫn uống thuốc này hàng ngày, với hy vọng là gan của họ sẽ bớt bị “nóng”. Thuốc này cũng không được FDA công nhận trong việc chữa trị bệnh viêm gan và không được dùng trong trường hợp có sạn trong túi mật.
Một trong những thức ăn khác rất thịnh hành trong dân gian dùng để chữa trị bệnh viêm gan là tỏi. Tỏi với hai chất hóa học germanium và selenium vẫn được xem như một chất thiên nhiên có khả năng tẩy độc, khử trùng và làm các mạch máu dẻo dai hơn. Tiếc thay, tỏi vẫn chưa được chứng minh một cách khoa học về công dụng chữa bệnh sưng gan. Hơn nữa trong tỏi có rất nhiều chất Sulfur, nên nếu ăn quá nhiều tỏi, chúng ta có thể bị ngộ độc, da bị nổi ngứa, đau bụng, tiêu chảy, đôi khi đi cầu ra máu hoặc làm tuyến giáp trạng thay đổi bất thường.
DƯỢC THẢO
Dựa theo cuộc nghiên cứu về thuốc sâm bày bán trên nước Mỹ của tờ Consumer Reports, nhiên liệu chính của sâm là chất ginsenosides thay đổi từ 3 đến 23.2 mg trong mỗi viên thuốc tùy theo viện bào chế. Ðiều này có nghĩa là quý vị phải uống 10 viên thuốc sâm của hãng này mới có công hiệu của một viên thuốc của hãng kia.
Cũng trong một cuộc nghiên cứu tương tự về thuốc dehydroepiandrosterone (DHEA), người ta khám phá ra trong số 16 hãng bào chế thuốc này, có 3 hãng hoàn toàn không chứa một tý thuốc nào trong những viên thuốc của họ, 4 hãng khác chứa ít hơn 80% chất thuốc đã liệt kê, và một hãng khác chứa 150% nhiều hơn lời khai trên chai thuốc. Vì thế, khi uống thuốc cỏ cây, không những chúng ta phải tự hỏi về khả năng chữa trị bệnh của thuốc mà còn phải nghiên cứu về phẩm chất và số lượng của viên thuốc mà chúng ta sắp uống. Tiếc thay, điều này nói thì dễ, làm thì khó, nên đa số bệnh nhân khi uống thuốc cỏ cây, thường “nhắm mắt uống đại”, mà người Mỹ vẫn thường nói: “Take it at your own risks”.
Có lẽ thuốc đã và đang được nhiều người dùng nhất để chữa trị bệnh viêm gan là Milk Thistle. Chất hóa học chính trong loại cỏ gai này là silymarin, một loại dược thảo đã được dùng trong hơn 2000 năm qua. Từ thời trung cổ, người Hy Lạp đã dùng thuốc này để “lọc gan” (“liver cleanser”). Thuốc được rút tỉa từ rễ và các hạt của loài cỏ với tên thảo mộc là silibum marianum.
Các nhà sản xuất milk thistle cho rằng chất silymarin có khả năng bảo vệ gan không bị tàn phá bởi nhiều độc tố khác nhau, nhất là trong trường hợp ngộ độc với nấm Amanita phaloides và trong trường hợp viêm gan vì nghiện rượu quá nhiều trong một thời gian quá lâu. Dựa theo kết quả của 16 cuộc nghiên cứu trên toàn thế giới về công dụng của milk thistle, người ta nhận thấy, phân hóa tố ALT và chất mật bilirubin có khuynh hướng giảm xuống sau một thời gian chữa trị bằng chất silymarin. Tuy nhiên, không một cuộc nghiên cứu nào có thể chứng minh một cách cụ thể về khả năng chống lại sự tàn phá của vi khuẩn viêm gan B và C. Tuy hãng bào chế thuốc thường khẳng định là thuốc không có phản ứng phụ, bệnh nhân thường hay đau bụng, tiêu chảy và buồn nôn sau khi uống thuốc.
Một loại thuốc thứ 2 thường được dùng để chữa trị bệnh viêm gan là thymosin, một chất kích thích tố lấy từ tuyến ức (thymic glands). Người ta cho rằng chất hóa học này có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống miễn nhiễm bằng cách kích thích những bạch huyết cầu tăng trưởng nhanh chóng hơn. Chất interferon sẽ được chế tạo một cách đắc lực hơn. Trong 2 cuộc nghiên cứu khác nhau, thuốc thymosin đã mang lại một số kết quả tương đối khả quan trong việc chữa trị bệnh viêm gan B nếu so sánh với thuốc bột (placebo). Trong một cuộc nghiên cứu thứ 3, thuốc thymosin hoàn toàn không có hiệu lực nếu so sánh với thuốc interferon. Tuy FDA vẫn chưa cho phép dùng thymosin trong việc chữa trị bệnh viêm gan B và C, nếu dùng chung với thuốc interferon, kết quả chữa trị có thể tốt đẹp hơn.
Ngoài những thuốc điển hình kể trên, hàng trăm loại thuốc cỏ cây, củ hột khác nhau đã và đang được bày bán dưới nhiều tên hiệu khác nhau. Chúng có thể được bán riêng biệt hoặc trộn chung với các dược thảo khác. Từ sụn cá mập đến dầu cá thượng đẳng DHA, từ sâm cao ly đến cao hổ cốt, từ trái nhầu Noni đến Pentaphi, từ nấm Shitake đến Huang Qi v.v. Và như thế, mỗi năm công dân Hoa Kỳ chi khoảng 6 tỷ Mỹ kim cho các loại thuốc “thiên nhiên” này. Người Việt Nam chúng ta còn uống thêm các loại thuốc Bắc, thuốc Nam khác nhau. Ða số là các loại thuốc gia truyền với nhiều công thức và cách thức pha chế hoàn toàn bí mật, nên thiếu những nghiên cứu khoa học và kiểm soát lâu dài.
PHẢN ỨNG PHỤ CỦA DƯỢC THẢO
Dựa theo tờ JAMA (Journal of the American Medical Association) đăng vào tháng 11 năm 2004, khoảng 20% của 70 loại thuốc cỏ cây bào chế tại Á Châu bầy bán tại Boston đã chứa quá nhiều những kim loại nặng như chì, mercury và arsenic. Vì thế, cũng theo bài báo này, họ đã đưa ra lời khuyên là tất cả bệnh nhân đang uống các loại thuốc cỏ cây nên đi thử máu để xem có bị trúng độc vì những kim loại nặng này hay không.
Ðể biết thêm chi tiết và những khuyến cáo về các loại thuốc cỏ cây quý vị có thể vào những trang nhà sau đây:
1) www.herbalgram.org
2) www.herbs.org
3) nccamc@altmedinfo.org
Tóm lại, có lẽ tất cả các loại thức ăn hay dược phẩm đều có khả năng bồi bổ cơ thể của chúng ta không ít thì nhiều, không bằng cách này thì bằng cách khác. Nhưng sự bồi bổ và khả năng trị bệnh của thức ăn và dược thảo cần được nghiên cứu kỹ càng và một cách khoa học hơn để tránh việc “tiền mất, tật mang”.
Một lần nữa, nếu thức ăn hoặc cỏ cây được dùng trong việc chữa bệnh, chúng phải được xem như một loại thuốc với tất cả những phản ứng chính và phụ. Trước khi được bầy bán trên thị trường, tất cả các loại thuốc tây phải trải qua những cuộc nghiên cứu vô cùng phức tạp và tỉ mỉ do Bộ Thực và Dược Phẩm (FDA) đặt ra và kiểm soát. Vì các loại thuốc cỏ cây vẫn được xem như thực phẩm nên chưa được kiểm xoát một cách kỹ lưỡng. Và như thế những hiệu quả và hậu quả lâu dài của đa số các loại thuốc này vẫn chưa được sáng tỏ và cần được suy xét kỹ lưỡng hơn.
SỐNG VỚI NGƯỜI BỊ VIÊM GAN
VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH
- Vì bệnh viêm gan A, B, C, D và E lan tràn khắp nơi, nhất là ở các nước Á Châu, gia đình Việt Nam nào cũng có ít nhất một vài người bị một trong những bệnh kể trên.
- Tùy theo từng loại vi khuẩn viêm gan, bệnh truyền nhiễm qua nhiều phương thức khác nhau.
- Thông hiểu được những phương thức lây bệnh và chữa trị bệnh viêm gan là điều kiện tiên quyết để sống với người bị viêm gan.
- Chữa bệnh viêm gan theo “linh tính”, hoặc theo những phương thức chưa được chấp thuận bởi hội Y Khoa Hoa Kỳ có thể làm lá gan hư hại một cách nhanh chóng hơn.
- Vì bệnh AIDS cũng lây qua máu và sinh lý, một số bệnh nhân viêm gan, nhất là viêm gan B và D cũng có thể bị nhiễm bởi vi khuẩn HIV.
1) Bệnh viêm gan A lây qua đường tiêu hóa nên rất dễ lây. Bệnh dễ lây nhất một vài tuần lễ trước khi bệnh nhân có những triệu chứng của bệnh viêm gan cấp tính. Một khi da và mắt trở nên vàng, bệnh không còn truyền nhiễm nữa. Tiếp xúc với người bệnh trong lúc này không còn “nguy hiểm” nữa. Nói một cách khác, bệnh chỉ dễ lây trong thời gian ủ bệnh (khi bệnh nhân vẫn hoàn toàn khỏe mạnh).
Vì bệnh viêm gan A có thể chích ngừa một cách dễ dàng, quý vị nên đi khám bác sĩ để được chích ngừa. Ða số chúng ta nếu trưởng thành tại quê nhà, đều đã tiếp xúc với vi khuẩn viêm gan A trong quá khứ nên đã có kháng thể chống lại vi khuẩn viêm gan A. Ðiều này có nghĩa là chúng ta đã được miễn nhiễm vi khuẩn viêm gan A.2) Bệnh viêm gan B lây qua máu và sinh lý, nên khó lây hơn bệnh viêm gan A. Thuốc chích ngừa viêm gan B rất hiệu nghiệm, và an toàn nên chúng ta cần chích ngừa càng sớm càng tốt. Ngay cả những phụ nữ trong lúc đang có thai, nếu chưa được miễn nhiễm cũng nên chích ngừa. Ðiều này có thể tránh được tình trạng bị viêm gan B cấp tính trong thời gian “nguy hiểm” này. May mắn thay, đa số phụ nữ trong thời kỳ thai nghén, nếu chẳng may, bị bệnh vi khuẩn viêm gan B cấp tính, vẫn có thể “lướt” qua một cách dễ dàng và bệnh không trở nên nặng hơn nếu so với người bình thường không mang thai.
3) Không nên giao hợp trong lúc người bệnh viêm gan C đang có kinh kỳ. Nếu người phụ nữ viêm gan C đang có kinh, sau khi tắm shower xong, họ nên “giội” nhiều nước để rửa sạch một số máu nhỏ có thể dính dưới sàn nhà. Nếu muốn, quý vị có thể dùng một số xà-bông lau nhà hoặc thuốc sát trùng bầy bán trong các siêu thị để khử trùng sau khi bước ra khỏi phòng tắm.
4) Nên dự trữ một ít găng tay khám bệnh trong nhà, để nhỡ trong trường hợp phải chăm sóc những vết thương của bệnh nhân viêm gan B và C.
5) Một lần nữa, vì phương pháp hữu hiệu nhất hiện nay trong việc phòng ngừa bệnh viêm gan B và D là chủng ngừa, quý vị nên đi chích ngừa càng sớm càng tốt. Nếu một trong những thân nhân của quý vị đang bị viêm gan B, quý vị nên thử cường độ chất kháng sinh HBsAB (HBsAB titer) trong máu của quý vị. Nếu cường độ cao hơn 10 IU/L, quý vị đã được miễn nhiễm cho cả hai bệnh viêm gan B và D.
6) Vì viêm gan B, C, D gần như không bao giờ lây qua mồ hôi và nước bọt, va chạm thể xác trong đời sống hàng ngày với những bệnh nhân viêm gan B, C và D không lấy gì là nguy hiểm. Ăn uống chung hoặc chấm chung một chén nước mắm cũng được xem là rất an toàn. Vì thế, chúng ta không phải cô lập hóa bệnh nhân viêm gan như những “kẻ cùi lở”. Bắt họ nấu nướng riêng biệt và dùng những chén bát riêng tư là một điều phi lý, nếu không muốn nói là vô nhân đạo.
7) Viêm gan E lây qua thức ăn và nước uống ô nhiễm bởi vi khuẩn. Khác với viêm gan A, bệnh này vẫn có thể tiếp tục lây bệnh trong nhiều tuần lễ, sau khi người bệnh đã phát ra những triệu chứng viêm gan cấp tính. Vì số tử vong cho cả mẹ lẫn bé sơ sinh có thể tăng lên rất cao, nhất là trong 3 tháng cuối cùng của thai nghén, những phụ nữ đang mang thai nên rất thận trọng về vấn đề vệ sinh, nếu trong nhà có người đang bị viêm gan E.
Tôi thường khuyên cả bệnh nhân lẫn thân nhân nên tìm hiểu và theo dõi sự tiến triển của bệnh để tránh những kinh ngạc bất ngờ. Thỉnh thoảng nên tháp tùng người thân của mình, khi họ đi bác sĩ. Bệnh nhân thường có khuynh hướng “dấu” bệnh, nên nhiều khi bệnh đã bước qua những giai đoạn cuối cùng mà người nhà vẫn không hề hay biết. Hỏi thăm bác sĩ về bệnh tình của người thân thương là một cách thức chăm sóc hữu hiệu, nhưng nên tránh những câu hỏi quá “phũ phàng” và quá thật tế, trước mặt bệnh nhân.
Khi niềm hy vọng ngày càng mong manh, bệnh nhân và gia đình thường tìm đến những cứu cánh khác nhau, trong đó thuốc Bắc hoặc thuốc Nam đã và đang đóng một vai trò quan trọng. Như một người đang chết đuối, một chiếc lá vàng hay một nhánh cây khô, cũng có thể được xem như một chiếc phao, một tấm ván, một vị “cứu tinh”, một lối thoát.
Rồi “còn nước, còn tát”. Lắm khi, trong gia đình mỗi người “tát” một kiểu. Hễ ai mách điều gì, điều đó có thể được đem ra thi hành một cách triệt để, đôi khi kém khoa học và vô nghĩa lý. Thuốc càng mắc, thì càng tốt. Phương pháp chữa trị, càng cầu kỳ, càng rắc rối, càng bí ẩn, thì càng có hiệu lực. Rồi “có tin, có lành”. Nhiều cách thức chữa trị được ứng dụng một cách trang nghiêm trà trộn với những thủ tục tôn giáo huyền bí hoặc những nghi lễ không kém phần trang trọng.
Tuy một số hóa chất có thể làm viêm gan, đa số thuốc Tây, nếu uống đúng cách sẽ rất an toàn và ít phản ứng phụ. Vì thế, không phải thuốc nào khi uống vào cũng sẽ trở thành những độc tố cho tế bào gan. Ðiều này, một lần nữa tô điểm cho câu: “gan tuy dễ hư, lại khó hư”. Xin quý vị tham khảo ý kiến với bác sĩ của mình trước khi tự ý ngừng uống các loại thuốc chữa bệnh kinh niên, như cao máu, tiểu đường v.v.
BỆNH VIÊM GAN VÀ BỆNH AIDS
Dựa theo thống kê vừa được tuyên bố tại Hội Nghị Hiệp Quốc chống Bệnh AIDS (U.N. AIDS Conference) tại New York vào tháng 6 năm 2001, tại vùng Nam và Ðông Nam Á đã có gần 6 triệu người đã và đang bị bệnh AIDS. Con số này tăng nhanh một cách kinh khủng, khoảng 30 % mỗi năm, nhất là ở các tỉnh lỵ, khi mãi dâm đã trở thành một kỹ nghệ thương mại công khai. Nước Mỹ với diện tích rộng lớn hơn vùng Ðông Nam Á rất nhiều, “chỉ” có khoảng 850 ngàn người bị bệnh AIDS.
Người ta ước đoán trong năm 2003, tại Việt Nam đã có gần 17 ngàn người vừa mới bị nhiễm trùng HIV nâng cao tổng số bệnh nhân HIV thành 76 ngàn trên toàn lãnh thổ. Trong số này có khoảng 11, 600 người đã bị phát bệnh AIDS và khoảng 6,550 người lìa trần vì vi khuẩn này vào cuối năm 2003.
Hiện nay, bệnh AIDS như một trận hồng thủy càn quét những nước thuộc vùng nam Phi Châu, như Angola, Botswana, Congo, Kenya, Mozambique, Namibia, South Africa, Zambia, Zimbabwe v.v. với con số tổng cộng lên đến hơn 25.3 triệu người. Vì thiếu thuốc men, đa số những người này sẽ lìa trần trong một thời gian rất ngắn. Thí dụ điển hình, là khoảng 36% công dân nước Botswana đã và đang bị AIDS. Chỉ trong một quốc gia nhỏ bé này thôi, sẽ có ít nhất 24 ngàn người thiệt mạng mỗi năm.
Nước Việt Nam, nếu không có những kế hoạch cấp tốc, quy mô và hiệu nghiệm, sẽ chẳng bao lâu rơi vào trận chiến “ghê tởm” này, mà kẻ thù sẽ sẽ len lỏi vào từng gia đình của mỗi một chúng ta.
Tóm lại, khi sống với người bệnh viêm gan chúng ta cần hiểu rõ chứng bệnh của họ. Vì đây không phải là bệnh hủi và không dễ lây như bệnh cảm cúm, nên chúng ta không cần phải xa lánh họ hoặc “bắt” họ ăn uống, nấu nướng riêng biệt. Nếu chưa được miễn nhiễm, nên chích ngừa viêm gan B càng sớm càng tốt. Vì chưa có thuốc chích ngừa viêm gan C, bằng mọi cách nên tránh tiếp xúc một cách trực tiếp với máu của bệnh nhân. Khi bệnh trở nên nặng hơn, nhất là trong trường hợp gan đã quá bị chai, chúng ta không còn sống với bệnh nhân nữa. Bây giờ là lúc chúng ta sống cho họ. Một trong những khẩu hiểu quan trọng nhất khi hành nghề y sĩ là “DO NO HARM” (Tạm dịch là “nếu không chữa được, xin đừng phá thêm”). Lời khuyên này cũng rất đúng cho tất cả những ai đang chăm sóc bệnh nhân viêm gan kinh niên. Nhiều khi vì lòng tốt, chúng ta vô tình làm hại người thân thương của mình nhiều hơn là giúp đỡ cho họ.
NHỮNG TỪ Y KHOA DÙNG TRONG SÁCH NÀY
Adrenal glands: Tuyến thượng thận. Ðây là cơ quan có hình tam giác phủ lên trên phần trên của mỗi thận. Mỗi một tuyến có 2 phần. Phần tủy chế tạo ra adrenaline và noradrenaline. Phần vỏ chế tạo các kích thích tố như cortisone, aldosterone, estrogen và androgen.
Antibody: Kháng thể. Một chất đạm trong máu được bào chế từ các mô dạng lympho, thuộc hệ thống miễn nhiễm. Khi cơ thể nhận diện ra một vật lạ (antigen), các bạch huyết cầu trong hệ thống miễn nhiễm sẽ tìm cách hóa giải “quân xâm lấn” bằng cách tiết ra những chất đạm đặc biệt này. Các kháng thể này sẽ bám chặt vào vật lạ (antibody-antigen-complex), dẫn đầu cho một phản ứng giây truyền phức tạp.
Antigen: Kháng nguyên. Một chất mà cơ thể phát hiện và xem như một vật lạ, một quân xâm lấn. Kháng nguyên thường là một chất đạm (protein). Trong trường hợp bệnh viêm gan, kháng nguyên là những phần tử hoặc cơ cấu khác nhau của vi khuẩn viêm gan.
Ascites: Sưng cổ trướng. Dung dịch ứ đọng lại trong xoang phúc mạc.
Asymptomatic: Không có triệu chứng.
Banding ligation: Cột lại bằng dây cao su.
Bile: Chất mật, bào chế từ tế bào gan.
Bilirubin: Chất mật vàng, sản phẩm phân hủy của sắc tố máu hemoglobin, tiết ra trong mật. Khi chất mật vàng này được dưỡng khí hóa, chúng sẽ đổi thành mầu xanh lá cây đậm. Các sắc tố này trộn chung với một số chất hóa học khác trong đường ruột, tạo ra mầu vàng, nâu của phân.
Biopsy: Sinh thiết, lấy mẫu tế bào để thử nghiệm.
Black tarry stool: Phân đen như mực. Ðây là trường hợp của xuất huyết bao tử. Khi máu mất quá nhiều, bệnh nhân có thể bất tỉnh và chết.
Blood transfusion: Truyền máu. Thông thường nói đến truyền máu, người ta thường liên tưởng đến truyền hồng huyết cầu. Nhưng trong một số trường hợp khi tiểu cầu quá thấp hoặc máu quá loãng, người ta cũng có thể truyền tiểu cầu hoặc huyết tương.
Cholestasis: Một trạng thái khi chất mật (bile) bị ứ đọng lại và chạy ngược vào máu. Các ống dẫn mật có thể bị tắt nghẽn vì viêm gan cấp tính hay vì sạn trong ống dẫn mật.
Chronic Hepatitis: Viêm gan mãn tính (còn gọi là kinh niên).
Cirrhosis: Chai, từ này thường được dùng để diễn tả trạng thái chai gan.
Clotting factors: Yếu tố đông máu.
Coinfection: Bị nhiễm trùng bởi nhiều vi trùng hoặc vi khuẩn khác nhau cùng một lúc.
Combination therapy: Chữa trị bằng nhiều loại thuốc hoặc phương pháp khác nhau.
Condom: Bao cao su, “áo mưa”.
Cure rate: Một danh từ thường dùng để diễn tả khả năng chữa hết bệnh của một thứ thuốc hoặc phương pháp y khoa nào đó.
Deltoid injection: Chích vai.
Edema: Phù, thủng.
Encephalopathy, hepatic: Bệnh loạn trí do gan gây ra. Khi gan bị chai, gan không còn khả năng loại bỏ độc tố, khiến người bệnh trở nên kém minh mẫn, lú lẫn và mất trí nhớ. Ðôi khi bất tỉnh và chết.
Endoscopy: Nội soi. Trong phương pháp này một máy quay phim dưới dạng một ống cao su nhỏ được luồn vào cơ thể để quan sát những cơ quan muốn khảo nghiệm. Nếu soi bao tử, người ta gọi là Upper GI endoscopy hoặc EGD (viết tắt từ chữ Esophago-Gastro-Duodeno-scopy). Nếu soi ruột già người ta gọi là lower GI endoscopy hoặc colonoscopy.
Epstein-Barr Disease: Bệnh sốt tuyến.
Fatty liver: Gan đóng mỡ hoặc còn được gọi là gan nhiễm mỡ, như trong trường hợp của người quá mập hoặc bị tiểu đường. Trong một số trường hợp người ta không biết tại sao gan bị đóng quá nhiều mô mỡ.
Fresh frozen plasma: Huyết tương đông lạnh, để truyền cho những bệnh nhân với máu quá loãng không cô đọng lại được. Người bị chai gan dễ bị chảy máu. Trong trường hợp mất máu quá nhiều, huyết tương đông lạnh có thể giúp cho máu bớt loãng hơn.
Fulminant hepatitis: Viêm gan ác tính.
Glutal injection: Chích mông.
Gynecomastia: Chứng phái nam có vú giống như phụ nữ. Vú có thể bị đau.
Healthy carrier: Người có vi khuẩn viêm gan trong máu, nhưng chưa có một triệu chứng hoặc dấu hiệu của gan bị viêm hoặc bị chai. Danh từ này, ngày nay ít được dùng, vì tuy kết quả thử máu tưởng vẫn bình thường, nhưng vi khuẩn viêm gan có thể đã/đang hoặc sẽ phá tế bào gan một cách từ từ nhưng chắc chắn. Danh từ được dùng nhiều nhất cho bệnh nhân viêm gan B với chất hóa học ALT hoàn toàn bình thường.
Heart Attack: Bệnh dồi máu cơ tim. Ðây là trường hợp khi một trong những mạch máu tim bị tắc nghẽn. Thiếu dưỡng khí các tế bào tim sẽ bị tổn thương một cách nhanh chóng.
Hemoglobin: Hồng huyết cầu.
Hemophiliacs: Người bệnh huyết hữu.
Hemorrhoids: Trĩ.
Hepatic: Thuộc về gan. Liên quan đến gan
Hepatitis: Viêm gan.
Hepatomegaly: Gan bị lớn, sưng.
Herbal medication: Dược thảo, thuốc cỏ cây
Immune: Miễn nhiễm. Người được miễn nhiễm là người đã có chất đề kháng chống lại một loại bệnh nào đó.
Immune tolerance: Khoang dung miễn dịch.
Immune system: Hệ thống miễn nhiễm.
Immunoprophylaxis: Chích ngừa.
Incubation period: Thời gian ủ bệnh, thời kỳ tiềm phục. Ðây là thời gian bắt đầu sau khi vi khuẩn/vi trùng xâm nhập vào cơ thể đến lúc bệnh bắt đầu bộc phát.
Inflammation: Viêm, sưng, nóng.
Jaundice: Vàng da, thường do chất bilirubin trong máu tăng quá cao.
Lactic acidosis: Nhiễm độc chất acid lactic.
Lactose intolerance: Không tiêu được sữa.
Lipid: Một chất thuộc một nhóm mỡ, có trong thức ăn và thiên nhiên. Nhóm này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp năng lượng và một số vitamin và chất béo thiết yếu.
Lipid-soluble: Tan trong mỡ.
Liver: Gan.
Liver biopsy: Sinh thiết gan.
Liver cirrhosis: Chai gan.
Mononucleosis, infectious: Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân.
Nodules: Những u nhỏ, kết tiết.
Oncotic pressure: Áp xuất thể tích.
Osteoporosis: Bệnh rỗng xương.
Pancreas: Tụy tạng, nơi bào chế nhiều chất hóa học để tiêu hóa thức ăn, nhất là dầu mỡ, và cũng là nơi nhiều kích thích tố (hormones) được bào chế, trong đó có Insulin.
Paracentesis: Rút nước từ xoang phúc mạc.
Peritoneal cavity: Xoang phúc mạc.
Pitting edema: Nước ứ đọng trong mô liên kết, chẳng hạn như hai bàn chân.
Plasma: Huyết tương. Dịch máu, sau khi các tế bào máu đã được tách ra. Bao gồm nhiều hóa chất và chất đạm khác nhau, thường được truyền cho những bệnh nhân với máu quá loãng.
Platelett cell: Tiểu cầu. Một cấu trúc hình đĩa, đường kính 12 ug đóng vai trò quan trọng trong việc đông máu. Khi gan bị chai, số tiểu cầu thuyên giảm dần dễ đưa đến chảy máu.
Portal hypertension: Tăng áp xuất tĩnh mạch cửa.
Portal vein: Tĩnh mạch chủ.
Post-exposure vaccination: Chích ngừa sau khi đã bị tiếp xúc với vi khuẩn.
Red Blood Cell (RBC): Hồng huyết cầu. Nhiệm vụ chính là chuyên chở dưỡng khí (O2) và thán khí (CO2).
Relapsing Hepatitis: Viêm gan tái diễn từng hồi, viêm gan hồi quy. Danh từ thường được dùng cho bệnh viêm gan A.
Sclerotherapy: Phương pháp cầm máu hoặc ngăn ngừa chảy máu từ tĩnh mạch trướng bằng cách chích một dung dịch thẳng vào hoặc chung quanh cách mạch máu này.
Seroconversion: Tình trạng khi hệ thống miễn nhiễm đã loại bỏ kháng nguyên bằng kháng thể. Khi thử máu antigen sẽ biến mất (trở thành âm tính), trong khi kháng thể (antibody) sẽ trở thành dương tính.
Spider angiomata: Mạch máu nhện trên da. Thường thấy trên da người bị viêm gan.
Subcutaneous injection: Chích dưới da. Ðể phân biệt với chích vào bắp thịt (intramuscular injection). Khi chích thẳng vào mạch máu người ta thường gọi là intravascular injection, mà người Việt chúng ta vẫn thường gọi một cách sai lầm là “chích vào gân”
Superinfection: Bị lây thêm bởi một loại bệnh nhiễm trùng mới, trong lúc đang bị nhiễm trùng bởi một loại bệnh nhiễm trùng khác. Chẳng hạn đang bị viêm gan B, nay bị lây thêm viêm gan C.
Thyroid: Tuyến giáp trạng, nơi bào chế kích thích tố giáp trạng (thyroid hormones). Những hormone này đóng vai trò quan trọng cho các tiến trình chuyển hóa bình thường, và cho việc phát triển tâm trí và cơ thể.
Titer: Nồng độ của một chất hóa học nào đó. Chẳng hạn, HBsAB titer.
Transmission: Phương thức truyền bệnh.
Ultrasound: Siêu âm.
Vaccination: Chích ngừa, chủng ngừa.
Varices: Tĩnh mạch trướng.
Vein: Tĩnh mạch. Mạch máu hoặc huyết quản đưa máu trở về tim.
Virus: Vi-rút, vi khuẩn, siêu vi khuẩn, siêu vi trùng.
Water-soluble: Tan trong nước.
White Blood Cell (WBC): Bạch huyết cầu là những tế bào máu có nhân. Chúng đóng vai trò chính yếu trong hệ thống miễn nhiễm, sản xuất những kháng thể chống trả lại sự tấn công của vi trùng và vi khuẩn.