Lịch sử Bình Giả

Tìm Hiểu Lịch Sử và Tên Gọi Bình Giã – Đinh Bạt Liệu

 

 

Tìm Hiểu Lịch Sử và Tên Gọi Bình Giã

 

Đinh Bạt Liệu

 

Mấy năm trước đây, trên trang binhgia.net có nhiều bài viết bàn về tên gọi của quê hương yêu dấu chúng ta là Bình Giã hay Bình Giả. Chuyện chưa ngã ngũ, thế rồi chẳng ai bàn tiếp nữa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng quan tâm và muốn biết về nguồn cội quê hương mình.Tôi cũng vậy, nên đã cố gắng tìm hiểu và muốn chia sẻ những gì góp nhặt được với mong ước là chúng ta cùng nhau tìm ra nguồn gốc tên gọi và thống nhất một tên chung. Vì quen viết và để tiện trình bày, trong bài này cho phép tôi được dùng tên Bình Giã để chỉ về quê hương chúng ta.

 

1/Lịch sử Bình Giã:

 

Tên Bình Giã được ghi nhận lần đầu tiên là vào năm 1846.

 

Sau khi đánh tan nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802, lấy niên hiệu là Gia Long. Một trong những việc nhà vua quan tâm là cho tiến hành kê khai ruộng đất trên cả nước, mà đã kéo dài từ năm 1805 đến năm 1839. Ở Nam Bộ, từ Bình Thuận trở vào, mãi đến năm 1836 mới thực hiện được. Số địa bạ của cả nước lên đến 16.000 cuốn, kê khai chi tiết từng xã thôn, tên mỗi chủ sở hữu, diện tích, loại đất sử dụng. Địa bạ được lập thành ba bản: bản Giáp lưu tại kinh đô, bản Ất lưu ở tỉnh, bản Bính được giữ ở xã thôn. Huyện Phước An là vùng đất của cả tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay, thuộc phủ Phước Long, trấn Biên Hòa (năm 1832 đổi thành tỉnh Biên Hòa) có 42 làng thôn . Số địa bạ này chưa có tên Bình Giã.

 

Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), Nhà Nguyễn tách hai huyện Phước An và Long Thành của phủ Phước Long để lập phủ Phước Tuy và cắt một phần đất của hai huyện này để lập thêm huyện Long Khánh. Huyện Long Khánh có 6 tổng. Tên và vị trí địa lý các tổng này có thể xác định như sau:

 

– Tổng Long Cơ có 7 xã thôn, là vùng đất chúng ta ở bây giờ.
– Tổng Long Xương có 10 xã thôn, là phần hữu ngạn và sát với sông Ray.
– Tổng An Trạch có 8 xã thôn, là vùng Hắc Dịch, Láng Lớn, Suối Nghệ….
– Tổng An Viễn có 6 xã thôn, là vùng Cẩm Đường, Cẩm Mỹ, Xuân Lộc…
– Tổng Tập Phước là vùng Bảo Chánh, Bảo Định… (bị mất hết địa bạ).
– Tổng Khánh Nhơn ở vùng tả ngạn sông Ray, giáp với tỉnh Bình Thuận.

 

Hầu hết dân của 6 tổng này là người dân tộc thiểu số vào thời đó gọi là “sách Man”, có nghĩa là buôn làng người Man. Những làng người thiểu số này mà triều đình kiểm soát được, gọi là “thuần Man”. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” thì “…vua ban cho một chữ làm họ như 6 chữ: Tùng, Lâm, Đào, Lý, Dương , Mai)(1). Ta thấy ngày nay nhiều người dân tộc Châu Ro thường mang những tên họ trên. Theo Nguyễn Đình Đầu trong cuốn “Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn- tỉnh Biên Hòa” thì 44 quyển địa bạ của huyện Long Khánh lập năm 1837, được ghi ký vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) và năm Tự Đức thứ 2 (1849), tổng Long Cơ còn giữ được 9 quyển. Số 9 quyển địa bạ này có diện tích là 119,5 mẫu của 3 xã là Bình Ba, Ngãi Giao, Thới Giao (ở phía bắc xã Ngãi Giao) và 4 thôn là Quảng Giao (Ấp 1 xã Xuân Sơn ngày nay), Tĩnh Ba (ở phía bắc Xuân Sơn), Bình Dã và Điền Dã (Ruộng Tre). Hai thôn Điền Dã và Bình Dã có nguồn gốc chung của một làng tận bên Sông Xoài, tổng An Trạch di cư sang. Thôn Xuân Sơn ngày ấy không thuộc tổng Long Cơ mà thuộc tổng Long Xương. (Xin lưu ý chữ “Dã” ghi đúng theo bản dịch của Nguyên Đình Đầu) (2)

 

Về địa giới Bình Giã, địa bạ ghi rằng: “Đông giáp địa phận thôn Quảng Giao, có rạch nhỏ làm giới. Tây giáp địa phận thôn Khánh Hội, có xa lộ làm giới. Nam giáp địa phận thôn Điền Dã(3), có xa lộ làm giới. Bắc giáp địa phận xã Ngãi Giao, có suối Liêm làm giới. Thực canh ruộng đất: 12 mẫu, 2 sào, 7 thước, 5 phân.(4) (Có thể tổng Long Cơ còn có thêm thôn Khánh Hội).

 

Năm Tự Đức thứ 4 (1851), bỏ huyện nha Long Khánh và giao về cho phủ Phước Tuy cai quản. Ba tổng Long Xương, Long Cơ và An Trạch gồm 23 xã thôn, như địa bạ lập năm 1846, được nhập vào huyện Phước An. Ngày 5/6/1862 triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất nhượng cho Pháp 3 tỉnh Miền Đông Nam Bộ là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Theo cuốn “Chuyên khảo về tỉnh Bà Rịa và thành phố Vũng Tàu”(5), số dân của Bà Rịa-Vũng Tàu vào năm 1901 là 54.902 người với 65 làng. Riêng Bà Rịa có 49.212 người với 62 làng. Số người thượng là 3.659 người. Các làng của 4 tổng An Phú Thượng, An Phú Hạ, Phước Hưng Thượng, Phước Hưng Hạ đều ghi chi tiết, có chua tên làng bằng chữ Hán và số dân cụ thể. Ba tổng Long Cơ, Long Xương và An Trạch được gọi là các tổng “Mọi”, gồm 20 làng, giảm 3 làng so với năm 1846. Số dân của 3 tổng này sách cũng không ghi, nhưng có thể tính toán để xác định được là 3.897 người. Bình quân là 195 người một làng. Chúng ta có thể hình dung được sự thưa thớt, cô độc của các làng thời đó, bị bao bọc xung quanh bởi toàn là rừng. Tổng Long Cơ lúc này có 6 làng: Bình Ba, Bình Giã, Điền Giã, Ngãi Giao, Quảng Giao, Trình Ba (Tĩnh Ba) và cũng không có gì thay đổi so với năm 1846, chỉ không còn làng Thới Giao. Với một vài trăm nhân khẩu trên một làng, thời đó các làng này chỉ là những quần cư người dân tộc Châu Ro mà mãi sau này họ vẫn còn sinh sống: Bình Giã là khu Xà La ,vùng đất giáo họ Vô Nhiễm thuộc xứ Vinh Trung bây giờ, mà từ năm 1961đến năm 1964 họ đã dần dần chuyển đi nơi khác. Điền Giã là Ruộng Tre. Hiện nay làng này vẫn còn, thuộc thôn 1 xã Bình Trung. Ngãi Giao có thể là Bàu Chinh, Bàu Trơ hay môt làng nào đó nay không còn. Xuân Sơn là Cà Mum. Trình Ba thuộc vùng đất xã Lâm San, nay làng này không còn. Còn làng Cồn Rang ở Lam San là nơi người dân tộc Châu-ro mới đến khai phá và định cư sau 1980.

 

Xét về đường sá ta có thể đoán được môt phần sinh hoạt và sự giao lưu thông thương trong vùng. Bà Rịa lúc đó có đường số 15 (Quốc lộ 51) được Pháp nâng cấp xong năm 1902 và một số đường giao thông trong 4 tổng thuộc vùng gần biển. Các tổng Mọi chưa có đường. Xa lộ làm ranh giới ghi ở địa bạ Bình Giã nêu trên chỉ là đường mòn, đường xe bò. Năm 1901, Quốc lộ số 1 và đường xe lửa từ Biên Hòa ra Nha Trang được khởi công. Năm 1907, đường xe lửa đã làm ra đến ga Mường Mán(6). Năm 1910, Pháp mở đường Tân Phong (Long Khánh) đi Bà Rịa. Từ đây sự giao thông ở vùng chúng ta có thuận tiện hơn. Năm 1917, hai tổng An Trạch và Long Cơ hợp nhất thành tổng Cơ Trạch. Ngày 7-11-1919, Toàn quyền Đông Dương lấy lý do an ninh đã sát nhập phần đất gọi là Khánh Sơn (Khánh Nhơn) và 3 làng của người thiểu số là Hưng Nhơn, Nhu Lâm, Thừa Tích, nguyên của tỉnh Bình Thuận vào tỉnh Bà Rịa và đổi tên thành tổng Nhơn Xương. Đến thời gian này, vùng hai tổng Mọi chúng ta có vẻ chưa có gì thay đổi.

 

Sau khi người Pháp nghiên cứu và trồng thử nghiệm thành công cây cao su, họ bắt đầu khai phá đất đai để lập đồn điền. Đầu tiên là đồn điền Gallia ở Bình Ba được thành lập năm 1908. Sau đó nhiều đồn điền khác ra đời ở Ngãi Giao, Cù Bị, Láng Lớn, Xà Bang, Cẩm Mỹ… Theo thống kê của Lê Thành Tường trong “Chuyên khảo về tỉnh Bà Rịa, năm 1950” vào năm 1929, tổng diện tích trồng cao su của cả tỉnh Bà Rịa là 8.000 héc-ta. Sự phát triển đồn điền cao su cần nhiều công nhân. Các chủ đồn điền đã phải mộ người từ miền Trung, miền Bắc mà thời đó gọi là đi công-tra (hợp đồng). Việc này đã làm gia tăng dân số trong vùng. Nhiều người cho rằng sự di dân giai đoạn này tuy không rầm rộ nhưng với thời gian dài nên số người ở miền Bắc, miền Trung vào vùng Đông Nam Bộ là rất lớn. Mở thêm đường sá cũng là để mở mang kinh tế, vận chuyển thuận lợi và khai hóa dân chúng. Hương lộ 327 từ Ngãi Giao đi sông Ray có trong khoảng thời gian những năm 1930. Sau khi có đường, một số chừng vài chục hộ dân, đa số ở vùng Hòa Long, Long Phước thuộc thị xã Bà Rịa bây giờ đến khai phá. Họ ở rất thưa thớt, khoảng vài ba trăm mét mới có một mái nhà. Có hộ ở gần đường, có hộ lại ở sâu trong bìa rừng. Đường 327 này được nối với đường 328 đi từ Bà Tô, Phước Bửu lên Bàu Lâm và sau này nối với quốc lộ số 1. Năm 1932, đồn điền Gallia bắt đầu trồng cao su ở Xuân Sơn và tới năm 1938, mở thêm một chi nhánh ở đây, rồi làm môt con đường riêng để chuyển mủ cao su về Bình Ba mà chúng ta quen gọi là Đường Cong. Một thời gian sau, dân số của thôn Quảng Giao lên đến 4.000 người. Năm 1938, chính quyền Pháp lập thêm một cấp hành chính là cấp quận, mà trước đó các tổng trực thuộc tỉnh và lập một quận chung quản lý cả 8 tổng của Bà Rịa gọi là quận Long Điền. Bình Giã vẫn thuộc tổng Cơ Trạch. Năm 1947 Pháp xây cầu sông Ray và để thuận tiện khai thác vùng đất của tổng Nhơn Xương. Cầu này bị lực lượng Cách mạng Việt Minh giật sập năm 1953. Như vậy, trong giai đoạn từ 1908 đến 1954 đã có sự thay đổi lớn ở vùng đất chúng ta. Các quần cư người Kinh ở các tổng Mọi được hình thành trong khoảng thời gian này. Tuy nhiên, hai cuộc chiến tranh Thế giới thứ I (1914-1918), Thế giới thứ II (1939-1945) và cuộc chiến 9 năm chống Pháp đã làm chậm lại sự khai phá đất đai ở vùng tổng Cơ Trạch chúng ta cũng như ở cả Đông dương nói chung.. Theo lịch sử huyện Châu Đức, năm 1948 ở Bình Giã có hai sự kiện lớn: Một là quân Pháp càn quét dã man và làm dân làng người Kinh phải bỏ làng chạy vào Quảng Giao, có một số trở về Long Phước, Hòa Long, Bà Rịa và vĩnh viễn không trở lại. Lúc đó người ta hay gọi là “chạy Tây”. Điều này giải thích được lý do và thời gian những cư dân đã bỏ đi trước khi chúng ta đến. Hai là một trận đánh lớn của Việt Minh phục kích quân Pháp đi từ Bình Ba vào Xuân Sơn tại bưng Xà La, ở ngay đoạn dốc ngã tư đường 765 và trạm xăng Bình Trung bây giờ. Trận này quân Pháp thiệt hại nặng nên sau đó đã liên tục vào làng Quảng Giao càn quét, bắn phá và đốt nhà để trả thù(7).

 

Sau hiệp định Genève ngày 20/7/1954, hai miền Đất nước bị chia cắt thì lại bắt đầu môt giai đoạn phát triển mới. Người ta đua nhau khai phá rừng để lập đồn điền. Không chỉ người Pháp có những đồn điền lớn như Gallia, Courtenay, mà nhiều người Việt như Đồng Ngọc Khánh, Lê Thành Long, Nguyễn Văn Của cũng lập đồn điền ở Bình Ba, La Vân. Khi những người di cư năm 1955 lên mảnh đất Bình Giã này, người ta thấy đồn điền cà phê của một người Pháp tên là Các-nê ở phía Nam xứ Vinh Trung mà sau này chuyển giao cho ông Lý Văn Xương. Ở vùng đất phía Bắc giáo họ Phi Lộc, cũng có đất bao ranh của luật sư Trần Ngọc Liễng, đồn điền cao su Bésia, đồn điền của Vương Quang Tôn, của Sáu Ủy, của đại úy Ngọc; sở cam quýt của Bà Kỳ, Tư Cam…

 

Sự thay đổi lớn lao nhất trong vùng này là sự thành lập trại định cư Bình Giã với số dân là 6.445 người (8). Với số lượng dân cư lớn như thế, có thể nói là một xã ở nông thôn đông dân vào bậc nhất tỉnh đã làm thay đổi hẳn vùng đất mà mới đây người Pháp còn gọi là Mọi. Ngày 10/11/1955 Tỉnh trưởng tỉnh Bà Rịa ký Quyết định số 297-VP thiết lập văn phòng hành chính Châu Thành tại tòa hành chính tỉnh lỵ trực thuộc huyện Long Điền để cai quản 3 tổng An Phú Hạ, An Phú Tân và Cơ Trạch. Ngày 3/1/1957, Bộ trưởng bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa là Nguyễn Hữu Châu ký Nghị định số 6-BNV-HC/NĐ ấn định các khu vực hành chính tỉnh Phước Tuy có 6 quận, gồm 2 quận là Vũng Tàu, Cần Giờ và 4 quận mà trước đây thuộc quận Long Điền là Long Điền, Châu Thành, Xuyên Mộc và Đất Đỏ. Xã Bình Giã thuộc tổng Cơ Trạch, quận Châu Thành(1b). Ngày 24/12/1961 chính quyền VNCH ra nghị định số 1290/NV thành lập quận Đức Thạnh, được tách từ quận Châu Thành và đặt quận lỵ tại xã Ngãi Giao do tổng thống Ngô Đình Diệm ký. Quận Đức Thạnh gồm 4 xã là: Bình Giã, Ngãi Giao, Bình Ba và Hắt Dịch. (Thời Đệ I Cộng hòa tổng thống kiêm thủ tướng nên ký luôn nghị định) (2b). Như vậy, địa giới của xã Bình Giã bao gồm cả Xuân Sơn và giáp đến tận sông Ray, Long Khánh. Lúc này khi làm các thủ tục hành chính, những người dân ở Xuân Sơn phải ra Ủy ban xã Bình Giã đặt tại trung tâm ấp Vinh Châu. Bên kia sông Ray, huyện Xuyên Mộc cũng phát triển mạnh. Năm 1959, chính quyền VNCH đưa người từ Quảng Trị, Quảng Nam vào lập khu dinh điền ở Thừa Tích (Bàu Lâm) và Ba Mẫu (Hòa Bình) và lập trại Công dân vụ ở đây. Người ta nói trại Công dân vụ tổ chức rập khuôn phía Cách mạng với sự điều khiển của Kiều Công Cung, một cán bộ cách mạng ly khai. Các cán bộ Công dân vụ mặc đồ đen, đi dép Bình Trị Thiên với khẩu hiệu: “Cùng ăn – Cùng ở – Cùng làm”. Đường 328 được gọi là đường Trần Lệ Xuân…

 

Đang trên đà phát triển thì cuộc chiến hai miền Nam Bắc ngày càng khốc liệt. Trận Bình Giã mà ác liệt nhất là từ ngày 28- 31/12/1964 được nhiều người trong nước và thế giới biết đến. Sau trận đánh này, các làng Xuân Sơn, Thừa Tích, Ba Mẫu không có người ở vì không có an ninh. Người thì vào rừng, người di tản ra thành. Nhiều làng người dân tộc Châu Ro cũng bị xóa trong thời gian này. Ở vùng Đức Thạnh, đa số họ về tập trung ở làng Vinh Thanh, xã Ngãi Giao. Do chuyển vùng định cư hay đi làm việc nơi khác, dân số Bình Giã sau 15 năm định cư (năm 1970) giảm xuống còn 5.300 người. Hai mươi năm sau ngày đến định cư, đêm 26 rạng 27 tháng 4/1975, quận Đức Thạnh thất thủ dưới hỏa lực của quân đội Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Bình Giã vô chính phủ vài ngày trước khi chính quyền mới tiếp quản.

 

Về phía chính quyền Cách mạng, sau Cách mạng Tháng Tám cũng có một số thay đổi địa danh địa giới cho phù hợp với tình hình, chủ yếu là để kháng chiến. Căn cứ Xuyên Phước Cơ (Xuyên Mộc- Phước Bửu- Cơ Trạch) được thành lập và và sau này được chọn làm nơi chuyển quân ở miền Đông Nam Bộ đến, để tập kết ra Bắc theo hiệp định Genève. Tháng 10/1967, Trung ương cục Miền Nam thành lập tỉnh Bà Rịa-Long Khánh (tháng 5/1971 đổi tỉnh thành phân khu, rồi đến tháng 8/1972 đổi lại thành tỉnh) gồm 8 huyện và 3 thị xã. Bình Giã thuộc huyện Châu Đức. Địa giới và tên gọi huyện Châu Đức lúc này bao gồm cả hai quận Châu Thành và Đức Thạnh ở bên phía VNCH. (Tháng 10/1962, quận Châu Thành đổi tên là quận Long Lễ).

 

Từ 30/4/1975, Xã Bình Giã được điều hành bởi Ủy ban Nhân dân Cách mạng và vẫn thuộc huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Long Khánh. Ngày 10/2/1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam sát nhập tỉnh Bà Rịa-Long Khánh, tỉnh Biên Hòa và tỉnh căn cứ Tân Phú thành tỉnh Đồng Nai, đồng thời phân chia lại các huyện. Xã Bình Giã thuộc huyện Châu Thành, địa giới của huyện Châu Thành diện tích cũng bằng huyện Châu Đức lập vào tháng 5/1971. Ngày 02/6/1994, Nghị định số 45-CP của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký phân chia huyện Châu Thành thành huyện Châu Đức, huyện Tân Thành và thị xã Bà Rịa. Huyện Châu Đức gồm 11 xã và thị trấn Ngãi Giao(9). Như vậy, huyện Châu Đức được thành lập hai lần, nhưng lần sau này diện tích nhỏ hơn quận Đức Thạnh, do xã Hắc Dịch bao gồm cả Sông Xoài sát nhập về huyện Tân Thành. Ngày 23/7/1999, Nghị định số 57/1999/NĐ-CP của Chính phủ do thủ tướng Phan Văn Khải ký, phân chia xã Bình Giã thành 2 xã là Bình Giã và Bình Trung (10).

 

Theo thống kê dân số năm 2000, tỉnh Bà Ria- Vũng Tàu có 822.000 người. Như vậy, sau 100 năm của thế kỷ 20 (từ năm 1901-2000) dân số của tỉnh chúng ta tăng 15 lần.

 

Trên đây là sơ lược môt số nét về lịch sử Bình Giã. (Tôi chỉ chú trọng vào các thời điểm thay đổi địa giới, địa danh của các tổng huyện vùng chúng ta ở, còn cấp tỉnh cũng đổi tên, tách nhập nhiều lần nhưng không ảnh hưởng đến Bình Giã, đã không được nhắc đến).

 

2/ Về tên gọi quê hương:

 

Bình Giã ban đầu có tên là Bình Dã. Đây là tên trong quyển địa bạ được ghi ký vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846). Từ Bình Dã này cũng được nhắc nhiểu lần khi xác định địa giới của các xã thôn xung quanh. “Bình Dã” có nghĩa là “đồng bằng” (bình: bằng; dã: đồng). Chữ “Dã” cũng hay dùng. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Năm Mậu dần thứ 8 (1698) đời Hiển Tông sai chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ Lộc Dã (tức Đồng Nai, người Thanh gọi là Nông Nại) làm huyện Phước Long”. “Lộc Dã” có nghĩa là “Đồng Nai” (lộc: nai). Một số từ điển Hán-Việt như của Đào Duy Anh (1932), của Nguyễn Văn Khôn (1960)…có ghi từ ghép “bình dã” và cũng giải thích với nghĩa là đồng bằng.Việc chuyển từ chữ “Dã” sang chữ “Giã là do hai phụ âm “gi” và “d” đều phát âm như nhau. Sự phân biệt cách viết là do các từ điển, báo chí, người đi trước… quy ước và đặt sẵn cho người sau phải theo. Hơn nữa, “dã” còn có nghĩa là “chưa thuần” như hoang dã, có vẻ không đẹp và văn minh nên người ta muốn tránh. Do đó, sau này Bình Dã (đồng bằng), Điền Dã (đồng ruộng) được viết thành Bình Giã, Điền Giã là điều dễ hiểu. Tên Bình Giã được những văn bản cấp cao của Nhà nước cũng như sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và thế giới dùng. Nhiều địa danh cũng có tên là“Giã”: thị trấn Vạn Giã ở Khánh Hòa; xã Trung Giã và cả trường tiểu học, trung học phổ thông thuộc địa bàn có cùng tên ở Sóc Sơn, Hà Nội; làng Thanh Giã ở Bắc Ninh. Ở huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ có xã gần giống tên xã chúng ta là xã Bằng Giã.

 

Tên Bình Giã có nhiều khi được viết thành “Bình Giả”. Có thể ngay từ thủa ban đầu dùng chữ Quốc ngữ thì có người đã viết “Giã” là dấu hỏi (thanh hỏi). Tài liệu xưa nhất chúng ta có hơn 100 năm viết là Bình-giả, Điền-giả là cuốn “Monographie de la province de Ba Ria et de la ville du Cap Saint Jacques, 1902”(3b). Sách này các địa danh tiếng Việt người viết đánh dấu chưa chuẩn.. Sách ghi làng Long-mỷ, An-ngải, Mỷ-xuân, Phước-lể, Phước-hửu …đều dấu hỏi. Đối chiếu chữ Hán đi kèm thì thấy đáng ra phải viết Long-mỹ, An-ngãi, Mỹ-xuân, Phước-lễ, Phước-hữu(11). Các sách như “Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu (2005)”, “Bà Rịa – Vũng Tàu những con số và sự kiện (2007)” khi dẫn chứng các địa danh ghi trong tài liệu này đều sửa lại là dấu ngã. Nghị định số 76-BNV/HC/NĐ của Bộ Nội vụ VNCH ký ngày 20 /3/1958 sửa đổi Nghị định số 6-BNV-HC/NĐ (bãi bỏ quận Đất Đỏ) cũng ghi là Bình giả, Ngải giao(4b). Ta thấy chữ “Ngãi” cũng ghi dấu hỏi. Năm 1973, xã Bình Giã có một sĩ quan làm Phân Chi khu trưởng, tương tự như Xã đội trưởng bây giờ, chữ gì cũng viết dấu hỏi. (Sĩ quan thời đó có trình độ ít nhất là tú tài, được đánh giá là học vấn cao, ở Bình Giã chỉ đếm trên đầu ngón tay)(5b). Con dấu của xã Bình Giã dùng từ năm 1965-1975 ghi là Bình Giả. Con dấu của Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Xã năm 1975 cũng ghi là Bình Giả, nhưng chỉ dùng trong thời gian 10 tháng sau ngày thống nhất Đất nước. Từ tháng 2/1976 đến nay hầu hết các con dấu của chính quyền và các ban ngành đều ghi là Bình Giã (6b) . Còn các văn bản mỗi người ghi một cách tùy ý. Trước đây, ở xã Bình Giã làm sai khai sinh cho dân sai cả hàng trăm tờ chỉ vì dấu hỏi dấu ngã. Những tên họ như Nguyễn, Đỗ, Vũ… thì ghi dấu hỏi là Nguyển, Đổ, Vủ. Như thế, chúng ta thấy từ xưa đến nay, từ Bộ Nội vụ VNCH, Hội nghiên cứu Đông dương đến cán bộ xã, người có bằng tú tài… có khi đã viết là “Giả”. Nhờ đối chiếu với những chữ khác trong bản văn, chúng ta thấy được “Giả” là sai và đánh giá trình độ những người viết là chưa phân biệt được dấu hỏi, ngã.

 

Bình Giã viết thành Bình Giả có ba lý do: Chữ quốc ngữ cho đến đầu thế kỷ 20 đang ở giai đoạn hình thành. Khi người Pháp cai trị, họ chủ trương dùng chữ Quốc ngữ. Nhờ các tờ Gia Định báo (1862), Đông dương tạp chí (1922) và nhiều tờ báo khác, rồi các tiểu thuyết, nhóm Tự lực văn đoàn, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ, trình độ học vấn của người dân được nâng cao… đã làm tăng thêm số người biết chữ và dần dần hoàn thiện tiếng Việt. Cho đến năm 1954 số người Việt Nam chưa biết chữ hoặc ở mức dưới tiểu học còn rất nhiều, nên việc viết sai chính tả cũng dễ xảy ra. Lý do thứ hai là người nói giọng Nam bộ không phân biệt được dấu hỏi, dấu ngã. Đây là lý do chính. Trong lời tựa của cuốn sách “Việt ngữ chính tả tự vị” in tại Sài Gòn của Lê Ngọc Trụ, được giải thưởng văn chương năm 1961, có đoạn: “Các bạn miền Nam đối với hai giọng hỏi, ngã, dẫu có viết thế nào cũng không phát âm đúng để phân biệt”. Thực tế ta vẫn thấy trên các bài báo, sách vở của những người nổi tiếng, có học hàm học vị như giáo sư tiến sĩ cũng thỉnh thoảng viết sai dấu hỏi dấu ngã. Lý do khác nữa là đối với một câu văn, viết tắt hay viết sai một vài chữ người ta có thể đoán ra hay sửa ngay cho đúng; nhưng đối với một danh từ riêng, tên riêng khi viết sai, nếu gặp lần đầu người ta thường công nhận và nằm lòng cái tên sai đó. Cho nên những người lần đầu tiên thấy chữ Bình Giã ghi dấu hỏi, thế là theo và không sửa được, rồi người này theo người kia làm lan rộng cái sai ra cộng đồng.

 

Một số người cho rằng Bình Giả mới đúng vì “giả” có nghĩa là “đất đỏ”. Theo tôi đây chỉ là sự suy đoán chỉ dựa vào nghĩa rồi gán ghép là không có gì chắc chắn. Chữ “giả” với nghĩa này rất hiếm dùng. Một vài tài liệu ghi “giả” để chỉ một loại đất sét màu đỏ được sử dụng làm nguyên liệu trong nghề gốm sứ. Nó không phải là đất đỏ bazan. Đất đỏ bazan là do dung nham của núi lửa tạo nên, ở nước ta có khắp nơi, nhất là Miền Đông Nam Bộ và Cao Nguyên Trung Bộ. Những nơi có đất đỏ này chúng ta không thấy địa danh nào có chữ “Giả” với nghĩa ấy. Ai vào làng Điền Giã (Ruộng Tre) sẽ thấy ngay cả sơn điền, tức là ruộng cao cũng chỉ là đất đen. Nếu dịch “Điền Giả” là “Đất đỏ ruộng” cũng khó nghe. Nói về đất đỏ, từ Hán-Việt người ta hay dùng là “xích thổ”(xích: đỏ; thổ: đất): “Gia định thành thống chí” và “Đại Nam nhất thống chí” đều dẫn “Tân Đường thư” đời nhà Đường nói rằng phía đông nam nước Hoàn Vương có nước Xích Thổ, đất màu đỏ pha vàng rất tốt và cho rằng đó là vùng Bà Rịa chúng ta. Sách cũng dùng chữ “xích thổ” để mô tả vùng đất đỏ của 7 xã thôn thuộc tổng Phước Hưng(12). Sông Ray là sông lớn nhất Bà Rịa, lưu vực khoảng 720 km2, mà đa số là đất đỏ bazan, đến mùa lũ nước chảy cuồn cuộn, đỏ ngầu. Có thể vì vậy mà thời trước gọi là sông Xích Lam. Thời vua Gia Long, ở cửa Lộc An có lập một nhà trạm để chuyển giao thông tin với triều đình Huế trong hệ thống đường Thiên lý. Dân mình không dùng từ “giả” theo Hán-Việt mà lại thích dùng Nôm hơn. Có rất nhiều địa danh là “Đất Đỏ”: huyện Đất Đỏ, họ đạo Đất Đỏ có từ thế kỷ 17 ở tỉnh nhà ai cũng biết. Trước năm 1954 có hạt Đất Đỏ ở vùng Vĩnh Linh, Cửa Tùng thuộc giáo phận Huế. Mũi Đất Đỏ, ấp Đất Đỏ ở Phú Quốc. Còn các ngọn núi, xóm thôn, con đường mang tên “Đất Đỏ” thì rất là nhiều.

 

Việc dùng tên Bình Giả có thể nói là sai, nhất là những người sống trên lãnh thổ Việt Nam. Đó là sai về mặt pháp lý: Đất nước ta vừa trải qua hai chế độ theo hai đường lối chính trị khác nhau, là kẻ thù của nhau, nhiều khi chỉ trích nhau về cách dùng từ; nhưng cả hai chế độ đã có các văn bản cấp cao mới đây nhất như Nghị định thành lập quận Đức Thạnh, Nghị định thành lập huyện Châu Đức, Nghị Định thành lập xã Bình Trung nêu ở trên đều dùng tên Bình Giã. Các nghị định là những văn bản quy phạm pháp luật, có hiệu lực bắt buộc chung, áp dụng trên toàn cõi quốc gia. Nghị định được ban hành và đăng trên công báo để công bố cho cả nước biết mà thi hành. Ai thực hiện sai là vi phạm. Việc khắc con dấu, đánh máy văn bản, làm khai sinh… ghi là Bình Giả là là sự sai phạm của cấp dưới, của người thừa hành. Chúng ta tự cho tên Bình Giả là đúng, rồi tự động dùng tên gọi này, không theo tên hành chính mà Nhà nước đã đặt, có khi sẽ gây phiền phức cho chính chúng ta. Các cơ quan công quyền có thể từ chối công nhận những văn bản ghi sai tên hành chính này. Như suối Rau là tên con suối làm ranh giới giữa hai làng Xuân Sơn – Anh Mao có trong địa bạ năm 1846 và người ta dùng tên này cho đến nay. Khi thành lập một xã thuộc khu vực con suối này, Nghị định 45-CP ngày 2/6/1994 lấy tên là xã Suối Rao (có lẽ thấy chữ “Rau” là dân dã, nhiều chất xơ quá!) và rồi mọi người ai cũng phải theo. Nói một cách khác, Nhà nước như cha mẹ, khai sinh cho con tên gì thì phải dùng tên ấy.

 

Giả sử chúng ta có những bằng chứng, luận cứ về địa danh của mình và muốn sửa đổi thì phải lập hồ sơ gửi lên cấp trên để xin phép. Được biết, việc thay đổi địa danh địa giới của cấp quận huyện và xã phường, Nhà Nước giao cho bộ Nội vụ xem xét và trình Chính Phủ phê duyệt. Có thể người ta sẽ nực cười nếu ai đó đề nghị sửa tên Sài Gòn cho đúng tên ngày xưa là Sài Côn!

 

3/Đôi điều cảm nghĩ:

 

Việc luận bàn đúng sai về tên gọi quê hương, chúng ta thấy không phải là vì chính trị, hay vì thương hiệu, mà là vấn đề chữ nghĩa. Cái sai chỉ là sai lỗi chính tả. Nhưng ở đây nó thể hiện sự bất nhất trong nội bộ người Bình Giã chúng ta về tên gọi của quê hương mình. Thực ra, tên chỉ là tên, nhiều khi chẳng có ý nghĩa gì cả hay còn có nghĩa không đẹp là đàng khác. Có khi tên được đặt bởi những người cầm rựa cầm rìu, là những người tiên phong đi khai phá đất hoang mà chẳng biết chữ nghĩa gì. Mục đích của việc đặt tên cho một vùng đất, ban đầu chỉ là để xác định vị trí và phân biệt với các vùng đất khác, địa danh khác. Sống trên mảnh đất nào đó lâu ngày “đất bỗng hóa tâm hồn”, nó hình thành những tình cảm ăn sâu vào lòng người, đó là tình quê hương.

 

Tên quê hương cho dù đẹp hay không đẹp, ai cũng yêu quý và muốn gìn giữ. Trên đất nước ta trong quá khứ các địa danh địa giới cứ “khắc nhập khắc xuất” như truyện cổ tích “Cây tre trăm đốt”, không biết mai này có còn giữ được tên Bình Giã nữa không? Mảnh đất mà chúng ta đến ở từ năm 1955 này, ngày nay có ai là hậu duệ của những người sống thời thế kỷ 19 trở về không? Dù là những người đến sau, là kẻ kế thừa, chúng ta cũng trân trọng những gì người xưa để lại, nhất là tên gọi. Không ai muốn thay đổi tên và lại càng không muốn dùng hai tên một lúc. Nó còn làm rắc rối cho tự chúng ta và cả xã hội.

 

Bình Giã đã có một lịch sử trên 160 năm, có thể có trước khi kê khai địa bạ vào năm 1837. Nhưng cứ cho rằng, địa bạ của một xã thôn được quan chức nhà Nguyễn ghi ký và lưu giữ tại kinh đô tức là triều đình nhà Nguyễn chính thức công nhận xã thôn đó, thì Bình Giã có mốc năm 1846 là năm thành lập. Địa bạ của “Bình Dã thôn” năm 1846 viết bằng chữ Hán, hiện đang lưu trữ ở Hà Nội. Đây là bằng chứng bằng văn bản xưa nhất của Bình Giã chúng ta. Hy vọng rằng sau này thế hệ con cháu hay ai đó có điều kiện tiếp cận sẽ tìm hiểu kỹ hơn.

 

Đã đến lúc chúng ta cần phải xác định và thống nhất một tên gọi chung của quê hương yêu dấu. Tôi thiết nghĩ tên BÌNH GIÃ là một tên gọi ấn tượng, có nguồn gốc, có giá trị lịch sử, có tính pháp lý cũng như cả ý nghĩa về mặt địa lý là vùng đất ở đồng bằng. Đó là tên thật và ước mong đừng ai dùng tên với chữ “GIẢ” nữa./

 

Đinh Bạt Liệu

 

Chú Thích:
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Quyển XXVII, phần tỉnh Biên Hòa, biên soạn vào thời vua Tự Đức.
(2) Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ Triều Nguyễn, Biên Hòa, TpHCM xuất bản 1994, Tr.361.
(3) Nguyễn Đình Đầu (Sđd, Tr.361).Vị trí thôn Điền Dã ghi trong địa bạ năm 1846: Bắc giáp thôn Bình Dã, Nam giáp thôn La Sơn, Tây giáp thôn Khánh Hội và La Sơn, Đông giáp thôn Anh Mao. Thực canh ruộng đất: 22 mẫu (gần 11 héc-ta).
(4) Một mẫu ta bằng 4.894,4 m2 (= 150 thước x 150 thước). Một thước = 0,4664 m.
(5)Hiệp hội nghiên cứu Đông dương, Monographie de la province de Ba Ria et de la ville du Cap Saint Jacques, Sài Gòn 1902
(6) Biên Hòa 300 năm hình thành và phát triển, Nxb Đồng Nai 1998. Tr.125
(7) Lich sử đấu tranh Cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân huyện Châu Đức, Nxb Chính trị Quốc Gia, 2004, trang 71.
(8) Đình Quang, Bình Giả quê hai, 1992 , Tr. 15.
(9) http://www.chinhphu.vn/vanbanpq/lawdocs/ND45CP.rtf?id=2309
(10) http://www.chinhphu.vn/vanbanpq/lawdocs/ND57CP.rtf?id=5101
(11) Long-mỹ, Phước-lễ… là lối viết tên riêng thời đó.
(12) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thống chí, (viết khoảng năm 1820-1822) Quyển Sơn xuyên chí (chép về núi sông), phần Trấn Biên Hòa.

 

Các files ảnh:

 

(1b) Công báo VNCH:

 

 

 

(2b) Công báo VNCH:

 

 

 

 

(3b) Cuốn “Monographie de la province de Ba Ria et de la ville du Cap Saint Jacques”, Sài Gòn 1902 ,(sách đã dẫn, trang 01,13,14 và 15).

 

 

 

 

 

(4b) Công báo VNCH

 

 

(5b)

 

 

(6b)

 

 

 

Ban Biên Tập

https://binhgia.net BÌNH GIẢ - Quê Hương Yêu Dấu
Follow Me:

Trả lời