Lịch sử Bình Giả

Bài thuyết trình Bình Giả 50 năm – Phạm Minh Tuấn

Lịch Sử Bình Giả – 50 Năm Định
Quá Trình Phát Triển & Gợi Ý Cho Tương Lai
(Bài Thuyết Trình của ông Phạm Minh Tuấn trong Đại Hội
Bình Giả tại Atlanta, Georgia)

Trọng kính quý cha, Kính thưa quý đồng hương và các bạn trẻ thân mến!

Thập niên 1990, Sàigòn có một bài thơ được phổ nhạc đã làm xúc động lòng người. Đây là bức tranh quê hương đẹp tuyệt vời. Lời thơ và ý thơ đơn sơ, mộc mạc, nhưng tươi sáng. Nó vẽ ra những hình ảnh hết sức thân thương. Em bé nào đọc lên, hát lên là hiểu ngay. Có thể nói chưa thấy lời định nghĩa quê hương nào hay hơn. Có người muốn tóm tắt bài thơ này nhưng không thành công. Bớt ý nào đi, bớt lời nào đi cũng đều làm hư một bông hoa tuyệt vời cả hương cả sắc, một bông hoa sen không lấm bùn. Thơ của Đỗ Trung Quân, nhạc của Giáp Văn Thạch. Hai thi sĩ và nhạc sĩ này rất
trẻ, là bậc kỳ tài.

QUÊ HƯƠNG – Bài Học Đầu
Cho Con

Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là vòng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một Mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…!

Vâng, kính thưa quý vị và các bạn. Chúng ta ra đi mang theo 

cả quê hương. Bao lâu chúng ta và con cháu chúng ta còn nói tiếng Việt, là bấy lâu chúng ta còn có quê hương. Bao lâu chúng ta còn ăn Tết Nguyên Đán, còn tưởng nhớ tổ tiên, còn tri ân các bậc tiền nhân, là bấy lâu chúng ta còn có quê hương. Trong bài thơ: Năm mươi năm ấy “biết bao nhiêu tình”, anh Nguyễn
Songlam đã gợi nhớ rằng:

Tháng ngày thấm thoát thoi đưa
Năm mươi năm ấy như vừa hôm qua
Bây chừ thế hệ ông cha
Một còn ở lại, trăm đà khuất xa
Ngày nay cuộc sống phù hoa
Em ơi hãy nhớ ông cha vun trồng
Đốt lên em, nén hương lòng
Khai hoang lập ấp công ơn cao dày.

Hôm nay chúng ta cùng nhau nhìn lại chặng đường dài 50 năm qua không nhằm mục đích khơi lên niềm đau, nhưng là để gợi lại nỗi nhớ và cùng nhìn về tương lai.

Hội nghị Genève kết thúc với Hiệp Định Đình Chiến gồm 6 chương và 47 điều đã được ký kết hồi 12 giờ đêm ngày 20 tháng 7 năm 1954. Ngày hôm sau ban thư ký hội nghị phổ biến bản tuyên ngôn sau cùng (Final Declaration) được thông qua bằng miệng đề cập đến vấn đề tổng tuyển cử sau 2 năm dưới sự kiểm soát của Uỷ Hội Quốc Tế.Tuyên ngôn sau cùng không mang chữ ký của bất cứ đại biểu phái đoàn nào của 9 quốc gia tham dự hội nghị. Chín (9) phái đoàn:

    1. Đại diện tứ cường:
      • Mỹ (thứ trưởng ngoại giao Bedell Smith)
      • Anh (ngoại trưởng Eden)
      • Pháp (ngoại trưởng Bidault)
      • Nga (ngoại trưởng Molotov)
    2.  Đại diện 4 quốc gia Đông Dương:
      • Nam Việt (Trần Văn Đỗ)
      • Bắc Việt (Phạm Văn Đồng và Tạ Quang Bửu)
      • Cao Miên (Sam Sary)
      • Ai Lao.
      • Thủ tướng Chu Ân Lai (Trung Cộng) cũng được mời vì Trung Quốc có can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương. Lúc này TQ chưa được gia nhập vào Liên Hiệp Quốc.

* * *

Hòa bình được tái lập nhưng đất nước bị chia đôi
với vĩ tuyến 17 trở thành giới tuyến giữa 2 miền Nam – Bắc. Trong vòng 300 ngày dân chúng 2 miền có quyền di chuyển từ vùng này sang vùng khác không bị hạn chế, không bị ngăn cấm. Một Uỷ Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến được thành lập với đại diện của Ấn Độ là chủ tịch, Gia Nã Đại và Ba Lan làm hội viên.

Hiệp định ghi như vậy nhưng trên thực tế việc thi hành mỗi bên áp dụng theo luật riêng. Hơn nữa trong bản hiệp định không ghi rõ phải phổ biến sâu rộng khắp nơi trên toàn lãnh thổ Việt Nam, bởi thế nên chi dân chúng trong vùng xa xôi, trong khu an toàn của Việt Minh hầu như không ai hay biết rõ nội dung của bản hiệp định nói gì, ngoại trừ mọi người biết là Pháp đã thua trận, đã đầu hàng.

Phong trào di cư đã bùng nổ 3 ngày trước khi hiệp định Genève được ký kết. Ngày 17 tháng 7 năm 1954 Pháp phải chở chuyến đầu tiên số người di cư vào Sàigòn.

Ba tỉnh ở miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh ở liên khu IV biết rất trễ tin tức được tự do di cư vào Nam. Thời hạn 300 ngày (từ 20-7-1954 đến 20-5-1955) sắp hết. Dân chúng ở miền Bắc đa số đã ào ạt vào Nam bằng máy bay (từ Hà Nội) hoặc bằng tàu thuỷ (từ Hải Phòng).

Nhân dịp tham dự hội nghị Á-Phi được tổ chức lần đầu tiên tại Banđum (Nam Dương) từ ngày18 đến 21-4-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã can thiệp, yêu cầu triển hạn di cư đến cuối tháng 10/55 để đồng baò có thể ra đi theo nguyện vọng. Yêu cầu này đã được các nước đồng ý.

Mãi tới tháng 12/54, một số bà con Nghệ Tĩnh ra được Hải Phòng đã tìm đủ mọi cách đưa tin về cho gia đình, từ đó mới dấy lên phong trào đòi hỏi đi Nam tại các tình Nghệ Tĩnh… Những gia đình được nhà cầm quyền chấp thuận đơn xin đi Nam, đã phải gồng gánh, thuê xe đi vào Nam qua vĩ tuyến 17 (cầu Hiền Lương sông Bến Hải) thật cam go, vất vả, gian truân. Đến vùng đất tự do, đồng bào đã được lưu lại tại các trại tiếp cư Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Tuy Hòa… rồi được chở vào Bình Đông 1, 2, 3 (Quận 8, Chợ Lớn) và Xuân Trường (Thủ Đức, Gia Định).

Ngày 6-8-1954 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã gởi văn thư yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ cung cấp viện trợ để di chuyển khoảng 100 ngàn vào Nam. Ngày 8-8-1954 thư phúc đáp của chính phủ Hoa Kỳ đồng ý sẽ cung cấp vật dụng cần thiết và sẽ hợp tác chặt chẽ với chính phủ Việt Nam. Việc định cư và ổn định đời sống cho gần 1 triệu dân tuy khó khăn nhưng là thành quả lớn lao đầu tiên của chính phủ Ngô Đình Diệm.

Kết quả: Tính đến đầu năm 1955 thì Điạ Phận Vinh có tổng số 188 ngàn tín hữu nhưng chỉ đi vào miền Nam được khoảng 45 ngàn người giáo dân, 38 linh mục, 27 đại chủng sinh, 52 tiểu chủng sinh.

TRẠI ĐỊNH CƯ BÌNH GIẢ

Bình Giả là trại của địa phận Vinh, toàn quốc là 315 trại. Số dân ban đầu là 6.445 (Vinh Hà: 2.100, Vinh Châu 2.300, Vinh Trung: 2.045). Đầu tháng 6/55, Phủ Tổng Uỷ Di Cư (PTUDC) đã tổ chức nhiều đoàn đi tìm đất cho đồng bào di cư đến trễ. Khi người mình vào tới các trại tạm cư ở miền Nam thì những trọng điểm cần thiết chung quanh Sàigòn, Gia Định và vùng phụ cận đã được đưa những đồng bào miền Bắc di cư đến định cư. Người mình đến sau phải đến những vùng trọng điểm xa hơn, hơn nữa việc chọn, tìm đất đai sinh sống cho một số dân trên 6 ngàn người chuyên về nghề nông cả là một vấn đề khó khăn và phức tạp vì còn phải tuỳ thuộc vào công thổ quốc gia mới đáp ứng yêu cầu được.

Nhưng để bù lại, những trại định cư như Bình Giả được chính phủ quan tâm và ưu tiên hơn, được tổ chức chu đáo hơn với nguồn viện trợ nhiều hơn và lâu dài hơn so với các trại đã có từ trước..

Phái đoàn đến Bình Giả để xem xét đất đai gồm có:

    • Đại diện Phủ Tổng Uỷ Di Cư: Ông Đoàn Văn Sáo (GĐ Nha Định
      Cư) và ông Nguyễn Văn Thái (kỹ sư điền địa).
    • Đại diện ban di cư địa phận Vinh gồm có 4 linh mục: Nguyễn
      Viết Khai, Đoàn Duy Đông, Nguyễn Văn Kiều và Phùng Viết Mỹ.
    • Đại diện dân chúng gồm có 7 ông: Phan Thanh Hương, Đinh Thế
      Lưu, Bùi Quang Báu, Nguyễn Xuân Hiền, Trần Quốc Hiếu, Nguyễn Trọng Thanh và Hoàng Công Phu.
    • Đại diện các nước viện trợ gồm có 3 người Mỹ và 2 người Pháp.
    • Đại diện chính quyền tỉnh Bà Rịa hướng dẫn phái đoàn.

Sau khi xem xét xong, phái đoàn trở về lại tòa hành chánh tỉnh nghỉ ngơi và dùng cơm trưa do tình khoản đãi. Đoàn được biết Bình Giả là nơi mà PTUDC đã có dự án sẽ lập 3 làng dưới sự bảo trợ của chính phủ Pháp (làng 1), Mỹ (làng 2 và 3).

Theo kế hoạch dự trù thì Bình Giả lấy hương lộ làm phân ranh các làng. Hương lộ này là của chủ đồn điền người Pháp (Đồn điền Bésia và Gallia) thực hiện để chuyên chở mủ cao su va cà phê từ La Sơn, Xuân Sơn về Bình Ba. Từ ngã 3 Ngãi Giao cách 2km, qua một con suối cạn về hướng Đông là bắt đầu khu định cư Bình Giả. Chạy thẳng về hướng Đông khoảng 2km phía Nam hương lộ là làng 1, phía Bắc hương lộ là làng 2. Một đường ngang cắt hương lộ theo hướng Nam Bắc chạy dài về hướng Đông khoảng 1km là làng 3.

Mỗi làng có một khu trung tâm rộng khoảng 4 mẫu tây để làm nhà thờ, trường học, trạm y tế, chợ, sân chơi…; và được phân phối 1 máy phát điện khoảng 40Kw, 1 xe ô tô chở hành khách loại Renault, 1 xe cam nhông. Phía sau mỗi làng dành một lô đất khoảng 4 mẫu tây phía sau khu nhà ở để làm nghĩa trang.

Nhà dân sẽ được cất theo hàng dọc hướng Đông-Tây, và mỗi gia đình sẽ được:

    • 2 sào vườn (25m x 80m) trên có nhà ở,
    • 1 căn nhà sườn gỗ 2 gian, mái tranh, vách lá (đúng ra là
      lợp 26 tấm tole nhưng vì tole đến trẽ, nên lợp tranh và dân được lãnh thêm vào tiền canh tác),
    • 5 sào đất đã ủi để canh tác,
    • 1 mẫu mới đốn cây to.

Cách thiết kế thì cứ 3 vườn lại có một con đường ngang nhỏ rộng 2m (Nam-Bắc) và cứ 9 vườn lại có một con đường rộng 5m (Nam-Bắc), cách 2 dãy vườn ở lại có một con đường rộng 5m (Đông-Tây) chạy song song với hương lộ chính. Mỗi khu xóm được máy khoan đào từ 2 đến 3 giếng công cộng để có nước cho dân chúng dùng.

Đó là kế hoạch tổng quát cho người dân biết trước lúc đến định cư chưa kể đến các trợ cấp khác.

Đáp lời yêu cầu của chính phủ, nước Pháp sẽ bảo trợ và xây dựng làng 1, Hoa Kỳ sẽ bảo trợ và xây dựng làng 2 và làng 3. Vì là giáo dân cùng chung một địa phận Mẹ, cùng chung một hoàn cảnh sống như nhau, để mọi người luôn yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, tránh tình trạng so đo, suy bì có thể xảy ra, cha Nguyễn Viết Khai đã đề nghị nhập chung cả hai nguồn viện trợ để xây dựng và phân chia đồng đều cho cả 3 làng.

Lợi Điểm Của Trại BÌNH GIẢ:

    • Đất đai: Vừa có đất trồng lúa, vừa có đất trồng hoa màu và cây công nghiệp. Đặc biệt là có thể đem một số dân trên 6 ngàn người tới đây định cư.
    • Khí hậu: Với mưa thuận gió hòa.
    • Giao thông thuận lợi, gần tỉnh lỵ và thành phố.

Phái đoàn đi xem đất về đã họp dân tại Xuân Trường để báo cáo tình hình cho dân chúng biết. Bà con rất vui mừng và đã chọn vùng Bình Giả (Bà Rịa) là nơi để lập trại định cư.

Toàn dân đã bầu một ban đại diện chung gồm 16 người: Ông Đinh Thế Lưu (chủ tịch), ông Đinh Huỳnh Lục, ông Nguyễn Văn Cừ, ông Cao Xuân Trường, ông Ngô Xuân Trạch, ông Nguyễn Duy Hiền, ông Trần Hữu Liệu, ông Ngô Xuân Trình, ông Nguyễn Đình Thi, ông Bùi Quang Báu, ông Nguyễn Đình Thông, ông Nguyễn Nhiệm, ông Trần Quốc Hiếu, ông Nguyễn Tiến Hoàng, ông Hoàng Công Phu, ông Trần Văn Hạnh.

Trong lúc đang ngồi đọc tài liệu tham khảo để soạn bài thuyết trình này, tôi đã nhận được điện thoại của Ông Cao Xuân Sung từ Bắc Cali (San Jose) báo tin Ông Cao Xuân Tường vừa qua đời tại Xuân Phong Bình Giả Việt Nam sáng ngày 21 tháng 5, 2005. Như vậy ban đại diện chung gồm 16 người năm đó, nay theo sự thăm dò của chúng tôi thì chỉ còn có Ông Nguyễn Văn Cừ ( Phi Lộc) còn sống ở Việt Nam và thầy Nguyễn Đình Thông (Gia Hòa) hiện đang sống cùng gia đình tại Canada .

Theo dự trù thì PTUDC sẽ cho máy san ủi đất trước, tuy nhiên vì chờ khá lâu (4 tháng) nên bà con ở Xuân Trường và Bình Đông muốn được đi định cư sớm bởi lẽ cảnh sống chung quá nóng nực và phức tạp, nhất là trẻ em bị đau yếu nhiều.

Đầu tháng 10/1955 văn phòng di cư địa phận Vinh họp khẩn cấp và đệ đạt nguyện vọng lên PTUDC Xin được khai phá rừng bằng chính sức người với nguyện vọng:

    1. Tăng cường mức ăn cho dân trong 4 tháng lao động nặng.
    2. PTUDC cung cấp dụng cụ để khai phá rừng.
    3. Xin PTUDC tuyển 30 cán bộ trong dân di cư (có trả lương) để hướng dẫn và đôn đốc 200 người xung phong đi trước.
    4. Xin một số thùng phuy để đựng nuớc uống.
    5. Xin cấp một số vài bạt (tentes).

Linh mục đại diên địa phận Vinh trình bày ý nguyện của dân và đã được ông tổng uỷ trưởng PTUDC chấp thuận và ông đã chỉ thị cho các phòng, ban liên hệ thi hành. Thông báo cho tình Bà Rịa để phối hợp công tác.

Ngày Thứ Sáu 28/10/1955 (13-09 Ất Mùi) toán tiền phong 200 người đã đặt chân đến mảnh đất Bình Giả. Đây là ngày lịch sử.

Nơi dừng chân đầu tiên là dưới bóng mát của cây cựa gà cổ thụ (là trung tâm xứ Vinh Hà ngày nay).

    • Ông giám đốc nha định cư đem kỹ sư và cán bộ đi cắm mốc của 3 làng.
    • Dân phá rừng được rải đều 2 bên hương lộ dài khoảng 1km.
    • Dựng lều trại làm nơi cư trú tạm cho dân lao động.
    • PTUDC đã cấp một xe Renault và 1 GMC và tài xế để tuỳ nghi sử dụng.
    • Các đồn binh Pháp ở Bà Rịa giúp đỡ và cung cấp nước hàng ngày.
    • Linh mục tuyên uý ở đồn Bàu Long và Hòa Long cứ vài ba ngày đến dâng thánh lễ.
    • Đoàn xe PTUDC về lại Sàigòn, còn cha Nguyễn Viết Khai và CB văn phòng địa phận vẫn ở lại để chỉ đạo và đôn đốc công tác.

Sau đó xe ủi được phái đến để ban đất phân lô giúp hình thành các khu, ranh giới cho 3 làng và mở rộng các con đường ngang dọc. Công việc khai phá được tiến hành một cách mau chóng, các lều trại được dựng lên tại khu trung tâm của 3 làng, chuẩn bị đón đồng bào từ Bình Đông và Xuân Trường.

Khoảng 1 tháng sau, đồng bào trại Bình Đông 1 (cha Đông), Bình Đông 2 và Bình Đông 3 (cha Kiều), Xuân Trường (cha Cần) được xe PTUDC chở lên trại định cư Bình Giả. Với 40 xe cam nhông chở ngày đêm phân phối cho 3 làng. Mỗi làng đều tổ chức cho các gia trưởng bốc thăm nơi tạm trú lúc mới đến.

Để cho cuộc sống mới của người giáo dân được hài hòa, phù hợp với sinh hoạt, phong tục và tập quán, nghề nghiệp trước đây, cha đại diện và quý cha đã hội ý, phân tích và sắp xếp như sau:

    • Giáo dân gốc Hà Tĩnh hầu hết sống về nghề nông, cần cù và hiền hòa, tổ chức thành một làng dưới sự lãnh đạo của cha Nguyễn Văn kiều.
    • Giáo dân gốc Diễn Châu, Nghệ An, hầu hết sống nghề buôn bán, tháo vát, năng động, tổ chức thành một làng dưới sự lãnh đạo tinh thần của cha Đoàn Duy Đông.
    • Giáo dân gốc Nghệ An nhưng sống gần Xã Đoài và vùng phụ cận, đa số sống nghề nông cần cù, dũng cảm, tổ chức thành một làng, dưới sự lãnh đạo của cha Trần Thanh Cần.

Mặc dầu có sự sắp xếp của quý cha, tuy nhiên mỗi gia đình, mỗi xứ, họ vẫn được tự do lựa chọn theo ý riêng, miễn sao trong cuộc sống được hài hòa và thông cảm với nhau.

Sau đó 3 cha đại diên cho 3 làng bốc thăm, kết quả:

    • Cha Nguyễn Văn Kiều bốc đúng thăm số I.
    • Cha Đoàn Duy Đông bốc đúng thăm số II.
    • Cha Trần Thanh Cần bốc đúng thăm số III.

Và để đáp ứng với tình hình thực tế:

    • Ban đại diện chung giải tán.
    • Mỗi làng (xứ đạo) bầu ban quản trị riêng để lo điều hành tổng quát về công tác chung của làng, quản lý vật liệu, nhân công và trợ cấp, phân bổ xe ủi theo nhu cầu của mỗi khu xóm.
    • Mỗi khóm (giáo họ) cũng bầu ra một ban quản trị của khóm để thi hành công tác chung của làng, đôn đốc công tác của khu xóm. Các ban quản trị của làng, xóm làm việc (phục vụ) dưới sự lãnh đạo của các cha giám
      đốc trại kiêm quản xứ cả đạo lẫn đời.
    • Ban quản trị làng tổ chức cho các khóm bốc thăm vị trí định cư và đã có kết quả như ngày hôm nay.

* * *

Công tác xây dựng cơ bản lẽ ra là do nhà thầu đảm trách, nhưng cha đại diện của địa phận đã trình xin với PTUDC cung cấp sườn nhà còn lại như tranh lợp nhà, lá thưng vách và công xây dựng xin dành cho dân di cư đảm trách, hầu giúp mọi người có công ăn việc làm. Nhờ vậy khi vào nhà mới ở, mỗi gia đình còn nhận thêm 3 ngàn đồng tiền công xây dựng.

Dân chúng được chia thành nhiều nhóm để đảm trách từng công việc như: cắt tranh, đánh tranh, dựng nhà, lợp nhà, thưng vách, đắp nền, v.v… dưới sự lãnh đạo của quý cha, của ban quản trị các khóm. Mọi người hăng say, tích cực bắt tay vào công cuộc xây dựng trại một cách đồng bộ và nhịp nhàng.

    • Nhờ có sự lãnh đạo, có kế hoạch và có tổ chức cộng với tinh thần hăng say cao độ của mọi người, mọi giới mong muốn sớm tạo dựng lại cuộc sống mới, tin tưởng ở một tương lai đầy hứa hẹn, nên chỉ một thời gian kỷ
      lục (khoảng 4 tháng), cuối tháng 2/56 là chính thức bắt thăm nhà ở.
    • Ngày 10/04/56 ĐGM Phạm Ngọc Chi (Uỷ ban hỗ trợ di cư) đã gửi thư cho các cha giám đốc các trại, chuyển giao các hoạt động hành chánh lại cho dân.
    • Sau khi các ban quản trị làng, xóm chấm dứt nhiệm vụ, UBHC Xã đã được bầu lên qua các nhiệm kỳ như sau:
      • (1956-58): Ông Nguyễn Duy Hiền
      • (1959-61): Ông Đinh Thế Hiển
      • (1962-64): Ông Võ Đình Hoạt
      • (1964-66): Ông Hoàng Đình Long
      • (1966-68): Ông Nguyễn Đồng
      • (1968-72): Ông Hoàng Đình Long
      • (1973-30/4/75): Ông Bùi Viết Khoa

Tóm lại, nhờ sự giúp đỡ tận tình của chính phủ (PTUDC) và của quốc tế nhất là Hoa Kỳ (UBHTDC đi vận động để xin yểm trợ), đồng bào di cư Bình Giả đã mau chóng có nơi ăn chốn ở, sớm ổn định cuộc sống, làm ăn ngày càng phát đạt, góp phần tạo thêm sự phong phú cho nền kinh tế địa phương. Tuy lúc đầu hội nhập đã phải vượt qua ít nhiều sự kỳ thị và thành kiến có cả từ 2 phía, nhưng nói chung, sự chấp nhận, dung dưỡng và che chở của miền Nam dành cho chúng ta đáng xem là quá tốt đẹp và đáng nói lên bằng 2 tiếng biết ơn.

Về Kinh Tế: Từ đầu năm 1957, con đường “tự túc mưu sinh” đã được chính thức phát động. Người dân Bình Giả với bản tính siêng năng, chịu khó, đã tự mình từng bước tạo dựng cuộc sống mới một cách hăng say với tràn đầy hy vọng.

Nông sản chính là lúa gạo, bắp, đậu phộng, đâu xanh… Nhờ đất đai màu mỡ lại gặp mưa thuần gió hòa nên kết quả vụ mùa bội thu ngoài cả sự ước mong của người nông dân. Số nông sản dư dùng đã giúp người dân có điều kiện nuôi thêm gia súc, gia cầm. Những cánh đồng cỏ tốt tươi rất thuận lợi cho việc chăn nuôi trâu bò, giúp cho người dân nhiều trong công việc cày cấy. Các thương gia người Bình Giả đã mua các nông phẩm của dân làng đem lên tỉnh, thành phố Sàigòn, Chợ Lớn bán và mua các nhu yếu phẩm, mắm muối, cá thịt về bán lại cho dân. Dần dà dân địa phương cũng tìm đến vùng đất đông đúc dân cư, là môi trường tốt cho việc mua bán, đổi trao… Nhiều gia đình đã sớm trở nên giàu có nhờ
biết cách trỉa bắp, trỉa đậu xanh trước trận mưa phá hàng năm, biết và chịu khó trồng bù tưới và nhất là biết trồng cây công nghiệp có giá trị như tiêu, cà phê, cây điều… Dân làng còn trồng nhiều loại cây ăn trái như mít, xoài, mãng cầu, đu đủ, chuối… vừa có trái cây ăn, vừa có thêm lợi tức cho gia đình. Chỉ vài năm sau đó, dân làng lần lượt xây nhà gạch lợp tôn thay cho nhà tranh vách lá. Nhiều toán thợ xây, thợ mộc, thợ hồ, thợ cưa đã được hình thành. Người dân có thêm công ăn việc làm. Bộ mặt làng xã đã thay hình đổi dạng một cách mau chóng và đẹp mắt.

Về Xã Hội: Bình Giả đã được tổ chức và sống theo mô hình giông giống như chế độ làng xã trước kia. Tinh thần tự giúp là căn bản cho cuộc sống. Dân làng đã dựa vào phong tục tập quán từ ngàn xưa của cha ông, tự tổ chức cứu tế, công quả, phòng vệ, sản xuất, tự túc cánh sinh trong vòng bảo bọc của luỹ tre xanh bằng tình lối xóm qua lại, đỡ đần nhau, một thứ tình cảm của người dân quê chân chất, thật thà, thắm thiết.

Những người ra làm việc ngoài xã hội hay tham gia vào các hội đoàn tôn giáo đề mang tính tự nguyện phục vụ dân làng. Đạo, đời lúc nào cũng phối hợp và gắn bó với nhau dưới sự lãnh đạo tinh thần của quý cha.

Về Văn Hóa: Bình Giả có những công trình vừa biểu thị niềm tin sâu xa mang tính cách tôn giáo, vừa là những di tích văn hóa, có giá trị và ý nghĩa cần bảo tồn, trùng tu và duy trì.

1.Tượng Đài Đức Mẹ Fatima trên đồi Gia Hòa: Trong một dịp cha Phùng Viết Mỹ từ Nha Trang ghé về thăm giáo họ Gia Hòa (khi còn ở quê nhà, giáo xứ Gia Hòa thuộc hạt Cầu Rầm mà ngài lạ hạt trưởng), sau khi thăm hỏi giáo dân và những người quen biết trước đây, ngài đã đi xem phong cảnh nơi người Gia Hòa định cư, thấy phong cảnh hữu tình, nên thơ, đẹp mắt và đặc biệt có hòn lèn phía sau, nếu khai phá và xây trên đó một bức tượng để kính Mẹ thì hay lắm. Qua lời gợi ý của ngài, bà con Gia Hòa đã họp bàn và quyết định khởi công xây dựng tượng Đức Mẹ Fatima trên ngọn đồi này.

Người thiết kế vẽ mẫu là ông Ngô Kim Toàn, người điều công là cố Nguyễn Khán (cố Nông). Tượng đài Đức Mẹ đã được khánh thành ngày 15-05-1957 và cũng đã được tu sửa nhiều lần.

Đến năm 2004, nhờ một số con cháu người Gia Hòa ở hải ngoại gửi về chút ít, cộng với sự đóng góp của bà con trong giáo họ và của các gia đình ngoài giáo họ có lòng sùng kính Đức Mẹ dâng cúng, ban điều hành giáo họ đã nhờ các kiến trúc sư, kỹ sư, các nhà trang hoàng chuyên nghiệp vẽ họa đồ và phối trí xây dựng lại. Công trình đã được khánh thành vào tháng 12 năm 2004, vào dịp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là quan thầy của giáo họ.

2. Tượng Đài Đức Mẹ tại trung tâm giáo xứ Vinh Châu: Đêm mùng 2 Tết Mậu Thân (Chúa Nhật ngày 18-02-1968), khoảng 1 giờ sáng, Bình Giả đã phải hứng chịu nhiều đợt pháo kích bằng loại đạn pháo 75 ly, 2 quả đạn rớt nổ ngoài vòng đai Vinh Hà, 1 quả nổ ở một căn nhà không có người ở tại hàng 4 khóm Yên Đại, 1 quả đạn xuyên qua tường nhà ông Quý (Thổ Hoàng) vào năm ngay dưới tủ chén, đạn nóng hổi nhưng không nổ. Sáng hôm sau, lực lượng an ninh đi thu gom được 51 quả đạn 75 ly về tập trung tại sân xã Bình Giả cho mọi người xem. Điều làm mọi người ngạc nhiên
là tất cả số đạn này đều bị gãy đầu hỏa pháo. Cũng trong đêm đó tại chi khu Đức Thạnh đạn pháo đã nổ rền trời, tại đồn Suối Nghệ đạn nổ đã phá hư hại nặng một số công sự phòng thủ…

Để tạ ơn Đức Mẹ đã che chở và ban ơn bình an đặc biệt này, anh em nghĩa quân đã thực hiện công trình này. Đức Mẹ đứng trên một tháp cao. Tượng Đài Đức Mẹ đã được ĐGM Giuse Lê Văn Ấn làm phép và khánh thành ngày 17-12-1968, và đã được ban hành giáo xứ Vinh Châu nhiệm kỳ IX (1985-1987: Ông Đặng Bảng (Đông Yên) là chánh trương và ông Phạm Thuyên (Xuân Phong) là phó) trùng tu lại. Việc trùng tu đã được khởi công ngày 01-05-1986 và hoàn thành ngày 31-05-86.

3. Tượng Đài Chúa Kitô Vua trên đồi Gia Hòa: Đã được anh em thanh niên giáo họ Gia Hòa thực hiện. Đây là một công trình đầy sáng tạo và nhiều công phu. Tượng Chúa Kitô Vua đứng trên một cánh của ngọn đồi cao, đang nhìn đoàn con truớc mặt với đôi tay giang rộng, để che chở và ban phát mọi ơn lành hồn xác cho con cái của Ngài…

Công trình đã được khánh thành đúng ngày lễ KITÔ VUA, 21-11-1990.

Về Giáo Dục: Ngay từ lúc xây dựng những cơ sở vật chất đầu tiên, công tác ưu tiên của cả 3 làng là các lớp học cho con em. Trường học được làm bằng sườn gỗ, mái tole, vách ván. Vật liệu và bàn ghế do PTUDC cấp. Tiên lương cho giáo viên và mọi chi phí khác do Đức Cha Phạm Ngọc Chi và cơ quan Caritas tài trợ.

Luật pháp của đệ I cộng hòa quy định: các trẻ em từ 6 đến 14 tuổi phải qua 3 năm đầu của bậc tiểu học.

Nhờ sự quan tâm đặc biệt và nhắc nhở thường xuyên của quý cha, các bậc phụ huynh đã ý thức được việc lo cho con cái được cắp sách đến trường, ý thức được giáo dục là phương tiện tốt để con cái có cơ hội tiến thân. Như thế người ta khuyến học, ham học nên kính trọng giáo dục và người có học.

Từ năm 1957 Bình Giả đã có trường trung tiểu học Tấn Đức chung cho cả 3 làng được xây dựng tại trung tâm xứ Vinh Châu. (Tiền do quỹ riêng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho trong dịp ông về thăm Bình Giả vào cuối năm 1956). Cha phó xứ Vinh Châu là cha Giacôbê Lê Đức Trung thiết kế, vẽ mẫu gồm 5 lớp học, 1 phòng dành làm văn phòng và 1 sân chơ bóng rổ. Thủ quỹ là ông Đinh Thế Lưu, đốc công là ông Đinh Huỳnh Lục và hiệu trưởng là cha Đoàn Duy Đông.

    • Năm học 1957, trường Tấn Đức có lớp nhứt đầu tiên đi thi
      lấy bằng tiểu haọc ở tình lỵ.
    • Các thầy, cô (giáo viên) đã được tuyển chọn tại địa phương.
    • Cuối thập niên 1960 đã có nhiều học sinh của các lớp đầu trở về dạy cho các lớp đàn em.

Điểm nổi bật nhất nói lên sự quan tâm lo lắng của quý cha đối với vấn đề giáo dục của con em trong xã nhà: Năm 1970, lúc cha Phêrô Trần Đình Trọng là chánh xứ Vinh Trung, ngài đã mở trường trung học tư thục Hồng Lĩnh đệ nhị cấp. Trong lúc đó ở ngay tỉnh lỵ Phước Tuy ngoại trừ trường bán công Huỳnh Tịnh Của và trường công lập Châu Văn Tiếp, các trường tư thục lâu năm như Minh Phụng và Sĩ Tải cũng chỉ có đến đệ nhất cấp. 

Ngày nay con cháu bình Giả đã có mặt trong mọi ngành nghể từ nha sĩ, y sĩ, dược sĩ, kỹ sư, giáo sư, v.v… và trong số đó có nhiều người trở về phục vụ tại nơi chôn nhau cắt rốn của họ.

Về Tôn Giáo:

    • Từ 28-10-55 đến 04-10-65: Thuộc điạ phận Sàigòn do ĐM Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền cai quản.
    • Từ 04-10-65 đến nay: Thuộc giáo phận Xuân Lộc mà ĐGM tiên khởi là Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn.

Về ơn gọi: Bình Giả có 1 giám mục, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan, 30 linh mục, 11 chủng sinh, 14 nam tu sĩ, 51 nữ tu sĩ.

    • Hiện tại cả 3 giáo xứ đều có các dì thuộc các cộng đoàn nữ tu Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, cộng đoàn thuộc dòng Đa-Minh (Tam Hiệp), cộng đoàn thuộc dòng Chúa Quan Phòng, cộng đoàn thuộc dòng Mến Thánh Giá (Huế). Quý dì giúp các giáo xứ trong việc phụng vụ, dạy giáo lý và văn hóa cho con em. Ngoài ra quý dì còn trực tiếp hướng dẫn cho các hội đoàn rất hiệu quả, luôn sát cánh với bà con từng ngày qua cuộc sống vui buồn, sướng khổ. Ngoài việc giáo dục trẻ thơ, quý dì còn chăm sóc sức khỏe cho bà con qua việc khám bịnh, cho thuốc, châm cứu chạy điện cho các bịnh nhân. Quý dì còn thường xuyên lo cho các gia đình dân tộc thiểu số Châu-Ro ở Ruộng Tre. Đã có gần cả trăm gia đình tân tòng, trình độ hiểu biết về đạo cũng như đời còn yếu nên quý dì quan tâm, nâng đỡ họ một cách đặc biệt hơn với lớp học tình thương và sự giúp đỡ về vật chất (nếu có), thật đúng với danh xưng thừa sai truyền giáo.
    • Sau 30.04.75, quý cha, quý thầy thuộc dòng Anh Em Hèn Mọn Việt Nam theo sự hợp đồng của Tòa Giám Mục Xuân Lộc và Nhà Dòng đã về giúp giáo hạt Bình Giả nói chung và giáo xứ Vinh Châu nói riêng. Cha Đa-Minh Nguyễn Xuân Bá đã về làm quản xứ vinh Châu từ ngày 2-11-75 cho đến ngày 30-3-93 ngài được về nghỉ hưu tại cơ sở nhà dòng ở Thủ Đức và qua đời tại đó ngày 17-10-95 hưởng thọ 74 tuổi. Cha Phêrô Đậu Văn Minh được ĐGM giáo phận Xuân Lộc nhờ tiếp tục quản nhiệm giáo xứ cho đến ngày 13-6-94.
    • Quý cha đã dồn mọi nỗ lực và cống hiến nhiều điều cho giáo xứ. Cụ thể là ngôi thánh đường hiện nay. cha Nguyễn Xuân Bá là người khởi xướng và xét duyệt mô hình xây dựng để dân xứ thực hiện. Cha Đậu Văn Minh từ lúc là phụ tá rồi quản nhiệm tạm thời, lúc nào cũng lo lắng và đã phục vụ bằng tất cả tâm huyết và trí tuệ, luôn lắng nghe những ý kiến xây dựng tạo được tinh thần đoàn kết và bầu khí vui vẻ trong giáo xứ, các giáo họ chấp hành công tác được giao một cách tích cực, hăng say, nhờ vậy giáo xứ đã dễ dàng vượt qua được “vạn sự khởi đầu nan” và tiến bước… Nhờ có cộng đoàn Phan Sinh, sinh hoạt của xứ họ đã thay đổi theo chiều hướng đáng mừng. Các hội đoàn của giáo xứ đã được từng bước xây dựng, củng cố, phát triển và vững vàng cho đến ngày nay. Đặc biệt thanh niên và Thiếu Nhi Thánh Thể là 2 giới nòng cốt và là hy vọng của giáo xứ. Đào tạo đội ngũ giáo lý viên và huynh trưởng các ngành của thiếu nhi với đầy đủ khả năng, thiện chí và tinh thần hy sinh phục vụ. Có các lớp học hỏi Kinh Thánh cho tất cả các giới trong xứ. Các lớp về nhân bản, giáo lý hôn nhân cho giới trẻ. Hướng dẫn các trò vui chơi trong sinh hoạt tập thể, các kỹ năng chuyên môn và tinh thần đồng đội cho giới thiếu nhi, v.v…. Hết thảy là những món ăn bồi bổ tinh thần cho mọi người, mọi giới nhằm canh tân đời sống đức tin. Đã đào tạo được nhiều anh chị em có năng khiếu về âm nhạc thành ca trưởng của các ca đoàn phụng vụ thánh nhạc trong thánh lễ. Nhờ vậy, các dịp lễ trọng trong năm, ca đoàn tổng hợp đã tổ chức những đêm thánh ca giúp cho ý nghĩa của ngày lễ được sâu lắng vào tâm hồn sống đạo của mọi tín hữu.

* * *

Nếu nhìn mộc cách chung chung thì từ ngày đến định cư tại Bình Giả đến năm 1963 là thời kỳ mà người dân có cuộc sống thoải mái, vui vẻ, đời sống kinh tế của người dân rất ổn định và đồng đều, có thể nói là sung túc nữa. vào thời đó giá cả nhu yếu phẩm, gạo, cá, thịt, đường sữa, vải vóc, xăng dầu, thuốc men luôn ổn định không lên xuống.

Cuối năm 2000, phía bắc của hương lộ chính bắt đầu từ xuân Phong và phía nam của hương lộ, một phần lớn khóm Văn Yên trở xuống hết ấp Vinh Trung đã được thành lập thêm một xã mới: Xã Bình Trung. Về hành chánh thì Bình Giả đã chia ra làm hai, còn trong thực tế của cuộc sống hàng ngày, Bình Giả vẫn là bình Giả đúng nghĩa như ngày đầu.

Dù cho sông cạn đá mòn
Nghĩa tình Bình Giả mãi còn sắt son.

* * * * *

PHẦN GỢI Ý CHO TƯƠNG LAI

Trọng kính quý cha,
Kính thưa quý vị và các bạn,

Có người nói rằng: “Cuộc sống là ở trước mặt, sao cứ lo nhìn về quá khứ!” Chính vì luôn hướng nhìn về tương lai mà tuyệt đại đa số chúng ta dù ở bất cứ chân trời nào cũng đã (tương đối) thành công nơi xứ người. Chúng ta từng vượt qua bao thách đố, trở ngại để thích nghi với cuộc sống nơi đất người. Như vậy không phải là đã trọn niềm tin vào tương lai hay sao?

Nhớ lại 50 năm trước đây, cha ông chúng ta đã phải bỏ lại mồ mả tổ tiên, tài sản của nhiều đời tích luỹ, họ hàng ruột thịt, quê hương làng xóm để ra đi tìm tự do cho chính mình, cho gia đình và cho thế hệ mai sau. Chính nhờ vào quyết tâm của cha ông chúng ta ngày đó, năm xưa mà ngày nay chúng ta và gia đình mới có cơ hội có mặt trên bầu trời tự do này.

Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ hồng ân Thiên Chúa vì những ơn đặc biệt mà Ngài đã ban cho chúng ta, cho gia đình chúng ta, và nhớ để biết ơn tiền nhân. Trên xứ người nói chung, chúng ta đã rất nhanh chóng hội nhập, thích nghi với cuộc sống và đứng vững trên đôi chân mình trong một thời gian kỷ lục, điểm nổi bật nhất là đã sáng suốt dồn tất cả mọi nỗ lực vào việc học vấn của con em.

Có thể hãnh diện mà nói rằng con em chúng ta nhờ những bệ, những “dàn phóng” do phụ huynh xây dựng và giúp đỡ  rong giai đoạn đầu đầy khó khăn đã tạo điều kiện để con cháu chúng ta thành công trên đường thành đạt. Dù đa số phụ huynh không có chuyên môn, ở một xã hội tân tiến, thế hệ thứ nhất đã chấp nhận làm những gì có thể làm được, chỉ cốt nuôi dạy con cháu ăn học đến nơi đến chốn.

Xin phép quý vị để được nêu lên một thành quả khiêm nhường, coi như là một tín hiệu đáng mừng, đáng khích lệ: Đó là kết quả tốt nghiệp trung học (high school) của thành phố Houston, Texas niên khóa 2003-2004 đã có 22 cháu người Mỹ gốc Việt đạt danh hiệu thủ khoa và á khoa, trong đó có 4 cháu là con cháu của Bình Giả.

Nếu chỉ tính ở Hoa Kỳ không thôi, mặc dầu chưa có được bảng thống kê chính thức, nhưng qua những thăm dò và ước tính khả tín riêng biệt của giới truyền thông thì cộng đồng người Việt đã đóng góp cho xã hội này khoảng 300 ngàn huyên viên, xin nhấn mạnh là chuyên viên với cấp bằng đại học. Trong số đó chắc chắn có nhiều con em Bình Giả chúng ta! Mong lắm thay.

Kính thưa quý vị,

Tất cả những gì chúng ta chưa làm được hay không làm được vì những trở ngại về ngôn ngữ, thiếu kỹ năng chuyên môn thì con em chúng ta đã thực sự làm cho chúng ta hãnh diện, khi lớp trẻ mạnh dạn bước vào giòng chủ lưu của xã hội này, bằng cửa chính, bằng trí tuệ và bằng niềm tự hào của giống nòi.

Những thống kê về di dân cho thấy thế hệ di dân đầu tiên, như chúng ta, là thế hệ làm cầu nối cho các thế hệ kế tiếp vốn có ít hoặc không có chút kỷ niệm và ấn tượng gì về cái quê hương mà cha mẹ đã bỏ lại. Đó là những thế hệ rất dễ ngày càng xa nguồn gốc nếu không được học hỏi, giải thích.

Chúng ta tự nhủ, chúng ta sẽ không nhất thiết phải đi làm cho thật nhiều tiền để các con có cuộc sống dư thừa, rồi khi chết đi để lại cho các con gia tài tiền của! Nhưng đại dương, sóng sau dồn sóng trước, chúng ta sẽ góp phần là gạch nối giữa con cái với những giá trị muôn đời của cội nguồn dân tộc. Các con sẽ được chia sẻ, rút tỉa những kinh nghiệm quý báu của cha ông đồng thời học hỏi những cái hay cái lạ của xứ người. Cái đó mới là cái đẹp riêng, là gia tài hành trang cho các con, đến khi một lúc nào đó nhìn màu da khác người bản xứ, sẽ tự hỏi: “Tôi là ai, từ đâu và vì sao ở chốn này?” Các con sẽ được giải thích để hiểu rõ, để tự tin, hãnh diện.

Trong ngày đại hội sinh viên Bắc Mỹ vừa qua, trong giải hoa hậu nhân ái, một tiết mục bên cạnh chương trình chính của 3 ngày đại hội, đã có một câu hỏi như sau: “Nếu em chỉ có 24 giờ để sống trên đời, em sẽ làm gì trong 24 giờ đó?” Và đây là nguyên văn câu trả lời của sinh viên trúng giải: “Nếu em chỉ có 24 giờ để sống, em sẽ dành 24 giờ đó cho cha mẹ em. Em sẽ thưa với ba mẹ rằng em cám ơn ba mẹ đã sinh ra em, đã trải qua nhiều cực khổ từ những ngày mới đặt chân đến Mỹ để nuôi em nên người như ngày hôm nay. Em có một đứa em nhỏ, nếu còn thời gian em sẽ dành cho nó, dặn dò nó chăm lo học hành, có hiếu với cha mẹ và thay em chăm sóc ba mẹ trong tuổi già.” Cô bé đứng tên khán đài cao, nhìn xuống ba mẹ ở dưới, vừa trả lời vừa rưng rưng nước mắt, tưởng chừng 24 giờ tới đây em sẽ ra đi thật.

Em có thể đã có người yêu. Em có thể đã có hằng trăm nhu cầu, ham muốn khác của tuổi mười tám, hai mươi. Nhưng không, cuối cùng em chỉ muốn trở về nơi em đã sinh ra.

Ý thức về nguồn, qua câu trả lời không được chuẩn bị trước nhưngrất  tự nhiên, chân thành bằng tiếng Việt Nam. “Con biết rằng nhờ có sự vun xới, khích lệ với biết bao lo lắng đợi chờ, bao khuyến khích ủi an và bao thăng tiến dạy bảo của cha me con mới được như ngày hôm nay.”

Vậy thì những lúc yếu mềm, không nghị lực, không lối thoát, xin hãy lăn bánh một chút về dĩ vãng, học ở đó những bài học cơ cực và đắt giá của cha ông chúng ta đã để lại như một di sản tinh thần quý giá vô cùng.

Xin kính mời quý cha, quý vị và các bạn cùng các cháu:

“Ta sẽ về thăm mộ gia tiên
Thăm bạn bè xưa với xóm giềng
Tay bắt mặt mừng rơi nước mắt
Chuyện trò kể lể nỗi hàn huyên.”

Houston, Tháng 5, 2005

Phạm Minh Tuấn

* Bài thuyết trình này đã được một số anh em và bà con Bình
Giả xa gần góp ý và ban nội dung chương trình của ngày Đại Hội đã thông qua.

Tài Liệu Tham Khảo

  1. Bình Giả Quê Hai của tác giả Đình Quang.
  2. Năm Mươi Năm Nhìn Lại Quê Hương Và Cuộc Di Cư Của Người Giao Hòa của tác giả Xuân Nghi.
  3. Hiệp Định Geneva 1954 Và Những Kinh Nghiệm Không Được Những Người Trong Cuộc Rút Tỉa của Phạm Cao Dương.
  4. Một Cái Nhình Chính Xác Hơn Về Hội Nghị Geneva của Tú Gàn.
  5. Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức.
  6. Trả Ta Sông Núi, Hồi Ký Của Phạm Văn Liễu.

[ngg_images source=”galleries” container_ids=”11″ display_type=”photocrati-nextgen_basic_thumbnails” override_thumbnail_settings=”0″ thumbnail_width=”240″ thumbnail_height=”160″ thumbnail_crop=”1″ images_per_page=”100″ number_of_columns=”0″ ajax_pagination=”0″ show_all_in_lightbox=”0″ use_imagebrowser_effect=”0″ show_slideshow_link=”1″ slideshow_link_text=”[Show slideshow]” order_by=”sortorder” order_direction=”ASC” returns=”included” maximum_entity_count=”500″]

Ban Biên Tập

https://binhgia.net BÌNH GIẢ - Quê Hương Yêu Dấu
Follow Me:

Trả lời